Xu Hướng 10/2023 # Văn Mẫu Lớp 10: Thuyết Minh Đoạn 1 Bài Phú Sông Bạch Đằng Dàn Ý &Amp; 2 Bài Văn Mẫu Lớp 10 # Top 19 Xem Nhiều | Hgpc.edu.vn

Xu Hướng 10/2023 # Văn Mẫu Lớp 10: Thuyết Minh Đoạn 1 Bài Phú Sông Bạch Đằng Dàn Ý &Amp; 2 Bài Văn Mẫu Lớp 10 # Top 19 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 10: Thuyết Minh Đoạn 1 Bài Phú Sông Bạch Đằng Dàn Ý &Amp; 2 Bài Văn Mẫu Lớp 10 được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Hgpc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Dàn ý thuyết minh đoạn 1 bài Phú sông Bạch Đằng

1. Mở bài

– Giới thiệu đôi nét về tác giả Trương Hán Siêu, tác phẩm Phú Sông Bạch Đằng.

– Tiêu biểu trong tác phẩm là đoạn 1 để lại giá trị về nội dung và nghệ thuật.

2. Thân bài

a. Đôi nét về Phú sông Bạch Đằng

* Hoàn cảnh sáng tác:

Bài phú chưa rõ được sáng tác năm nào, khoảng vào 50 năm sau cuộc kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên thắng lợi.

* Bố cục: gồm 4 phần

Phần 1. Từ đầu đến “Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”: Cảm xúc của nhân vật “khách” khi du ngoạn sông Bạch Đằng.

– Phần 2. Tiếp theo đến “Nghìn xưa ca ngợi”: Cuộc gặp gỡ và trò chuyện của các bô lão.

– Phần 4. Còn lại. Lời khẳng định về đức độ của con người.

* Nội dung chính: Phú sông Bạch Đằng đã thể hiện lòng yêu nước và niềm từ dân tộc trước chiến công trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất, truyền thống đạo lý nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam.

– Nghệ thuật: đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam.

b. Thuyết minh về đoạn 1 bài Phú sông Bạch Đằng

* Vị trí: Đoạn nằm ở phần đầu tiên của tác phẩm, từ “Khách có kẻ” đến “Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!”.

* Giá trị nội dung của đoạn trích: Cảm xúc của nhân vật “khách” khi du ngoạn sông Bạch Đằng.

* Giá trị nghệ thuật: hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ, cảm xúc đa dạng…

3. Kết bài

– Đánh giá giá trị của đoạn 1 bài Bạch Đằng giang phú.

Thuyết minh đoạn 1 bài Phú sông Bạch Đằng – Mẫu 1

Khi nhắc đến Trương Hán Siêu, không thể không nhắc đến tác phẩm “Phú sông Bạch Đằng”. Trong đó, nổi bật nhất là đoạn một trong bài phú đã khắc họa cảm xúc của nhân vật “khách” khi du ngoạn sông Bạch Đằng.

Đoạn một của bài Phú sông Bạch Đằng nằm ở phần đầu tiên của tác phẩm:

Tác giả đã hóa thân vào nhân vật khách trong một tâm thế dạo chơi, thưởng thức phong cảnh của đất nước. Tác giả đã nêu ra những địa danh của Việt Nam như: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng… và cả những địa danh của Trung Quốc: Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Tam Ngô…. Cho thấy vốn hiểu biết sâu rộng cùng với lòng tự hào, tình yêu của Trương Hán Siêu đối với đất nước.

Nhân vật “khách” chính là lời tự xưng của tác giả, tạo ra được lối đối đáp của “chủ – khách” thường dùng trong thể phú. Trương Hán Siêu đã khắc họa tâm thế của nhân vật khách: giương buồm, giong gió, lướt bể, chơi trăng. Còn mục đích dạo chơi thiên nhiên: thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên, tìm hiểu cảnh trí đất nước. Tác giả còn nhắc đến các địa danh được lấy từ trong điển cố của Trung Quốc: sông Nguyên, sông Tương, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, Đầm Vân Mộng – “Khách” đi qua nhờ trí tưởng tượng, hay sách vở; Hoặc địa danh nổi tiếng của Việt Nam: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng – “Khách” tự họa bức chân dung tinh thần của mình với một hồn thơ tha thiết với đất nước. Bức tranh thiên thiên nhiên sông Bạch Đằng hiện lên nhiều vẻ: Có hùng vĩ, hoành tráng: “Bát ngát sóng kình muôn dặm”, cũng có trong sáng, nên thơ: “Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu”, cả sự ảm đạm, hiu hắt và hoang vu: “Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu/Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”. Qua cảnh sắc thiên nhiên đó, tác giả đã cho thấy tâm trạng của “khách”: lòng tự hào trước bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, cũng như sự buồn thương, nuối tiếc trước vẻ đẹp ảm đạm, hắt hiu khi thời gian xóa nhòa.

Trương Hán Siêu đã sử dụng thể phú tự do, không bị gò bó về hình thức, kết hợp tài tình giữa tự sự và trữ tình tăng khả năng biểu cảm, phong phú đa dạng về hình ảnh. Kết cấu chặt chẽ, thủ pháp liên ngâm tác giả đã cho thấy được tài năng trong ngòi bút và cách tư duy sâu sắc của mình.

Như vậy, đoạn một là một trong những đoạn thơ tiêu biểu của bài Phú sông Bạch Đằng.

Thuyết minh đoạn 1 bài Phú sông Bạch Đằng – Mẫu 2

Trương Hán Siêu (? – 1354), tự là Thăng Phú, người làng Phúc Am, huyện Yên Ninh (nay thuộc thành phố Ninh Bình). Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là Phú sông Bạch Đằng.

Bài “Phú sông Bạch Đằng” chưa rõ được viết năm nào, có thể vào khoảng 50 năm sau cuộc kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên thắng lợi. Bài phú viết về sông Bạch Đằng, một con sông ghi dấu nhiều chiến công hiển hách trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, từ thời Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán đến nhà Trần chiến thắng Mông – Nguyên, đều là những đạo quân xâm lược hùng mạnh của phương Bắc. Bài phú đã thể hiện lòng yêu nước và niềm từ dân tộc trước chiến công trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất, truyền thống đạo lý nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam. Phú sông Bạch Đằng được coi là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam.

Nổi bật trong bài phú là đoạn một nằm ở phần đầu của tác phẩm. Nội dung chính của đoạn này là khắc họa cảnh sắc thiên nhiên của sông Bạch Đằng. Đồng thời tác giả cũng cho thấy cảm xúc của nhân vật “khách” khi du ngoạn sông Bạch Đằng.

Đoạn một của bài thơ bắt đầu từ “Khách có kẻ” đến “Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!”:

Đầu tiên, Trương Hán Siêu đã giới thiệu về nhân vật “khách”. Hình ảnh “khách” hiện lên là con người phóng khoáng, thích ngao du sơn thủy:

Các địa danh nổi tiếng được nhắc đến vốn là những danh lam thắng cảnh, những di tích lịch sử quen thuộc, từ đó, người đọc nhận ra một đặc điểm khác của nhân vật “khách”: một tâm hồn nghệ sĩ ưa tự do, phóng khoáng, một bậc tri thức ham du ngoạn, trước là để chiêm ngưỡng, hai là mở rộng, nâng cao tầm hiểu biết. Dẫu đi nhiều mà khát vọng bốn phương vẫn còn tha thiết:

Advertisement

Khách muốn học theo Tử Trường nghĩa là muốn học ở bậc sử gia nổi tiếng này sự nghiên cứu lịch sử, văn hóa dân tộc. Tiếp đó, tác giả đưa người đọc đến với cảnh thực, cũng là điều hút hồn khách khi đến với sông Bạch Đằng:

Dòng sông hiện lên với nhiều dáng vẻ, vừa hùng dũng, thướt tha, lại có vẻ ảm đạm, hoang vắng. Vì vậy, “khách” mang trong mình tâm trạng với nhiều sắc thái khác nhau: vui, buồn, tự hào, nhớ tiếc:

Ở đoạn một, tác giả đã sử dụng thể phú tự do, không bị gò bó về hình thức, kết hợp tài tình giữa tự sự và trữ tình tăng khả năng biểu cảm, phong phú đa dạng về hình ảnh. Kết cấu chặt chẽ, thủ pháp liên ngâm tác giả đã cho thấy được tài năng trong ngòi bút và cách tư duy sâu sắc của mình. Khổ thơ đầu bài Phú sông Bạch Đằng đã gợi lên trong người đọc những mạch cảm xúc đan quyện vào nhau, vừa như được mở rộng tầm mắt bởi non kỳ thủy tú của giang sơn, vừa tha thiết lắng sâu với sự hy sinh của người chiến sĩ hào hùng đã ngã xuống vì dân tộc.

Đọc đoạn một của bài phú nói riêng, và cả bài phú nói chung tác giả Trương Hán Siêu không chỉ ca ngợi truyền thống anh hùng kiên cường bất khuất của dân tộc mà còn thể hiện niềm tự hào về cảnh đẹp quê hương đất nước.

Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Cây Hoa Hồng Dàn Ý &Amp; 14 Bài Văn Thuyết Minh Lớp 8

Mỗi loài hoa đều mang trong mình vẻ đẹp, hương sắc và ý nghĩa riêng. Hoa hồng có rất nhiều loại, màu sắc khác nhau như hoa hồng nhung, hoa hồng trắng, hoa hồng vàng… Mời các em cùng theo dõi bài viết để rèn kỹ năng thuyết minh về loài hoa thật tốt.

Thuyết minh về cây hoa hồng hay nhất

Dàn ý thuyết minh về hoa hồng

Thuyết minh hoa hồng ngắn gọn

Thuyết minh hoa hồng hay nhất

Thuyết minh hoa hồng chi tiết (12 mẫu)

Dàn ý thuyết minh về hoa hồng

I. Mở bài: giới thiệu về hoa hồng:

Ví dụ: Em rất thích hoa, trong tất cả các loài hoa em thích nhất là hoa hồng. hoa hồng rất đẹp và mang một ý nghĩa hết sức đặc biệt.

II. Thân bài: thuyết minh về hoa hồng

1. Khái quát về hoa hồng: Là một loài hoa leo hoặc là loài hoa trồng chậu

Hoa của hồng rất thơm

Hoa hồng là loài hoa rất có ý nghĩa trong đời sống

2. Chi tiết về hoa hồng:

– Cấu tạo của hoa hồng:Thân cây hoa hồng nhỏ, có nhiều gai

Lá hoa hồng màu xanh đậm, có nhiều gân

Hoa hồng màu hồng, màu đỏ, màu trắng,…

Hoa hồng có nhiều cánh, mỗi cánh hoa hồng nhỏ và đẹp

Đài hoa hồng màu xanh

– Đặc điểm của hoa hồng:Hoa hồng thường mọc thành bụi hoặc leo

Hoa hồng có ý nghĩa vô cùng đặc biệt

Hoa hồng rất đẹp

– Ý nghĩa của hoa hồng: Là biểu hiện cho tình yêu

Là biểu hiện cho những tình cảm thiêng liêng : tình mẹ con, tình cha con, tình yêu trai gái,…

Là ý nghĩa, biểu tượng cho những vật có giá trị

– Hoa hồng trong nghệ thuật.

III. Kết bài: nêu cảm nghĩ của em về hoa hồng

Ví dụ: Hoa hồng là một loài hoa rất có ý nghĩa và xinh đẹp. chúng ta nên phát huy loài hoa xinh đẹp này.

Thuyết minh hoa hồng ngắn gọn

Hoa hồng vẫn thường được gọi là nữ hoàng của các loài hoa bởi vẻ đẹp kiêu sa của nó. Mỗi một loài hoa có một vẻ đẹp riêng nhưng với hoa hồng người ta thấy ở đó sự đằm thắm và có chút gì đó bí ẩn. Hoa hồng đã khiến cho biết bao nhiêu người say mê.

Xuất xứ của hoa hồng là từ xứ sở Ba Tư từ cách đây khoảng 35 triệu năm. Như vậy hoa hồng đã có một lịch sử vô cùng lâu đời. Cho đến nay hoa hồng vẫn là biểu tượng của tình yêu, sắc đẹp, chiến tranh và chính trị. Cách đây khoảng 3000 năm trước công nguyên, người Sumerian nay thuộc Iraq đã có những ghi nhận đầu tiên về hoa hồng. Đến khoảng 600 năm trước công nguyên, những bài thơ sáng tác về hoa hồng bắt đầu ra đời. Chúng chủ yếu ngợi ca vẻ đẹp của hoa hồng và kể từ ngày ấy người ta đã xem hoa hồng như là nữ hoàng của các loài hoa rồi. Sự phân bố của hoa hồng khá lớn từ Alaska cho đến Mexico và thậm chí là cả ở Bắc Phi. Vì khí hậu của những nơi này không giống nhau nên mỗi nơi lại có những loài hoa hồng khác nhau.

Cây hoa hồng thuộc giống thân cỏ, nhỏ như chiếc đũa và có màu xanh sẫm. Bao phủ bên ngoài thân là những chiếc gai nhọn giúp cho hoa hồng chống lại kẻ thù như sâu bọ. Với những người chăm sóc hoa hồng cũng phải vô cùng cẩn thận nếu không sẽ bị những cái gai nhọn làm chảy máu. Từ thân cây những cành hoa mọc ra với rất nhiều lá. Lá của hoa hồng có hình bầu dục với rìa ngoài như mép răng cưa, trên mặt lá còn có những đường gân nổi rõ. Trên mỗi cành nở một bông hoa hồng tuyệt đẹp. Đầu tiên chúng là những nụ hoa chụm lại với nhau. Khi hoa hồng nở, ta nhìn thấy rõ nhụy hoa nằm ở giữa, xung quanh là cánh hoa rồi đài hoa phía dưới. Hoa hồng càng nở thì càng khoe sắc. Mỗi bông hoa được tạo nên bởi vô vàn các cánh hoa mềm mịn. Hương hoa hồng thoang thoảng, quyến rũ đến mê người.

Hiện tại các nhà khoa học đã nghiên cứu và chỉ ra rằng có hơn 150 loài hoa hồng khác nhau. Một phần cũng là do sự lai tạo giống của con người còn vốn dĩ ban đầu chỉ có hoa hồng nhung và hồng trắng. Hoa hồng nhung có nhiều màu, chủ yếu là màu đỏ và màu hồng phấn. Nhờ được nhân giống mà ngày nay có thêm những loại hoa hồng nhiều màu sắc như hồng đen, hồng tím, hồng vàng, hồng xanh, hồng bảy sắc,… Ở châu Âu có nhiều cánh đồng hoa hồng với những màu sắc vô cùng rực rỡ. Có những nơi người ta tổ chức ngày hội hoa hồng như một cách để tôn vinh vẻ đẹp của loài hoa này.

Đối với cuộc sống hàng ngày của người dân Việt Nam hoa hồng đã trở nên vô cùng quen thuộc. Đà Lạt có lẽ là nơi trồng nhiều hoa hồng nhất nước ta. Đặc biệt là hoa ở đây rất đẹp và thơm. Những người buôn hoa thường đến vườn hồng của Đà Lạt chọn mua những bó hoa mang về bán lại cho người dân. Người dân mua về cắm hoa trong lọ sứ, lọ thủy tinh hay dùng làm trang trí,… Chỉ cần đặt một lọ hoa hồng lên bàn thôi là không gian trở nên lãng mạn hơn hẳn. Cánh hoa hồng thường được dùng là siro chữa ho, chiết làm nước hoa, làm nước tẩy trang,… Xưa kia người trong hoàng cung, đặc biệt là các phi tần của nhà vua thường tắm với cánh hoa hồng.

Ở một vài nước phương Tây như nước Pháp, hoa hồng là loài hoa biểu trưng. Còn trong văn hóa Ấn Độ bông hồng lại được ví với vẻ đẹp của người Mẹ. Nó biểu thị cho sự hoàn mĩ, không thiếu sót. Còn trong Kito giáo, hoa hồng lại là sự hóa thân của những giọt máu chảy ra từ vết thương của Chúa. Đối với nhiều quốc gia trên thế giới hoa hồng là biểu tượng của tình yêu, của lòng chung thủy. Vào các ngày lễ như 8/3, 20/10 nam giới thường tặng hoa hồng cho nữ giới thay cho lời yêu, lời cảm ơn. Vào ngày 20/11 học sinh cũng thường mua hoa hồng tặng thầy cô để tỏ lòng kính trọng.

Cách trồng hoa hồng không khó nhưng cần có sự chăm sóc cẩn thận để hoa khoe sắc và nở đều. Với những người yêu hoa hồng, được ngắm nhìn những bông hoa nở chính là niềm vui mỗi ngày.

Thuyết minh hoa hồng hay nhất

Nhắc tới hoa hồng người ta nhắc tới vẻ đẹp của sự thăng hoa. Có hơn 160 quốc gia trên thế giới đều thừa nhận rằng hoa hồng có thể chế biến thuốc. Ở Việt Nam, hoa hồng còn là biểu tượng của tình yêu đôi lứa!

Muôn vạn sắc hoa, muôn vạn màu sắc. Mỗi loài đều có một đặc trưng riêng. Tuy nhiên màu đỏ là màu của lửa màu của chiến thắng vì vậy mà vua của các loài hoa chính là hoa hồng. Một loài hoa tượng trưng cho tình yêu bất tử. Hoa hồng được coi là loài hoa đẹp nhất trong các loại hoa bởi nó tượng trưng cho tình yêu mãnh liệt. Hoa hồng như cái tên của nó rất đẹp, nhưng cũng rất “nhọn”. Từ gốc đến ngọn được bao trùm bởi gai nhọn.

Dĩ nhiên, hoa hồng còn đẹp bởi mùi hương quyến rũ,mê hoặc. Hương hoa hồng vô cùng dễ chịu, nồng nàn, lan tỏa… Hoa hồng đỏ được xem là hoa thánh dành riêng cho thần Vệ nữ.Truyền thuyết về hoa hồng gắn liền với truyền thuyết về tình yêu của thần thánh. Hoa hồng không chỉ là nữ hoàng các loài hoa bởi vẻ đẹp kiêu sa và hương thơm quyến rũ, mà còn là một dược phẩm quý của thiên nhiên với những công dụng làm đẹp. “Hoa hồng có gai”vinh dự được gán cho những người đẹp.

Phía sau mỗi loài hoa đều có mang một ý nghĩa và truyền thuyết riêng. Người ta nói rằng hoa có một ngôn ngữ của riêng mình và chuyển tải thông điệp qua vẻ ngoài xinh đẹp. Mỗi bông hoa khác nhau có ý nghĩa hoa khác nhau được phản ánh trong sắc thái của chúng. Theo cách đó, mỗi loại hoa hồng cũng có một ý nghĩa riêng dựa trên các màu sắc sống động. Ý nghĩa quan trọng của hoa hồng màu vàng, đặc biệt là tình bạn, nhưng nó cũng có nhiều cách giải. Hoa hồng (Rose) có tên khoa học là Rosa sp. có nguồn gốc ôn đới và á nhiệt đới vùng Bắc bán cầu, được xếp vào lớp Song tử diệp (Dicotyledoneae), bộ Hồng (Rosales), họ Hồng (Rosaceae).

Hoa hồng đã có mặt trên Trái đất cách đây 35 triệu năm. Vào khoảng 3000 năm trước công nguyên, người Sumerian, nay thuộc Iraq, đã có những ghi nhận đầu tiên về hoa hồng. Trung Quốc có thể là nơi đầu tiên thuần hóa hoa hồng, cách đây khoảng 5000 năm. Nhưng mãi đến thế kỷ XVIII thì những giống hồng từ Trung Quốc mới được giới thiệu ở châu Âu, sau đó du nhập qua Hà Lan, Pháp, Đức, Bungari và chính người Châu Âu mới có công lai tạo ra nhiều giống mới hiện đại như ngày nay, hầu hết những giống hồng ngày nay đều có nguồn gốc từ nó. Kể từ đây, bắt đầu một thời kỳ lịch sử mới của hoa hồng, với ngày càng nhiều giống hoa hồng lai tạo đã được ra đời.

Trong tự nhiên, giống hoa hồng có khoảng 150 loài, phân bố khắp bán cầu bắc, từ Alaska cho đến Mexico và ở cả Bắc Phi. Hoa hồng thuộc nhóm thân gỗ cây bụi thấp, thẳng, có nhiều cành và gai cong. Đặc điểm chung của hoa hồng là: Lá hoa hồng là lá kép lông chim mọc cách, ở cuống có lá kèm nhẵn, mỗi lá có 3-5 hoặc 7-9 lá con, xung quanh lá con có nhiều răng cưa nhỏ. Tùy mỗi giống cây mà lá có màu xanh đậm hay xanh nhạt, răng cưa nông hay sâu hoặc có dạng lá khác. Cánh hoa hồng cuộn tròn xếp thành nhiều vòng quanh một hình nón nhọn có hình dạng giọt nước mắt tròn. Hồng có mùi thơm nhẹ, cánh hoa mềm dễ bị dập nát. Hồng có nhiều màu sắc đa dạng, từ trắng, vàng, đỏ, cam, … cho đến các loại có 2 màu trên cùng một hoa (bi-color). Hoa hồng thuộc loại hoa lưỡng tính, nhị đực và nhị cái trên cùng một cành hoa, các nhị đực dính vào nhau bao xung quanh vòi nhụy, khi phấn chín rơi trên đầu nhụy nên có thể tự thụ phấn.

Ở Việt Nam hoa hồng được nhập trồng từ lâu trên khắp mọi miền Nam Bắc. Hoa hồng là loại hoa chủ lực chiếm 30% – 35% diện tích trồng hoa cắt cành của nước ta. Những vùng trồng hoa tập trung là Lâm Đồng, Lào Cai, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh…Trong hệ tranh tượng Kitô giáo, hoa hồng hoặc là cái chén hứng máu của Chúa Kitô, hoặc là sự hóa thân của những giọt máu này và thậm chí, là chính vết thương của Chúa.

Trong văn hóa phương Tây, hoa hồng thường xuất hiện như là biểu tượng của sự phục sinh huyền bí. Abd Ul Kadir Gilani so sánh hoa hồng với những vết sẹo trên cơ thể sống. Với người Hy Lạp hoa hồng vốn là một loài hoa màu trắng, nhưng khi Adonis bị tử thương, nữ thần Aphrodite chạy đến cứu chàng đã bị đâm phải một cái gai và máu đã nhuộm thẫm những bông hồng cung tiến nàng. Chính ý nghĩa biểu trưng về sự tái sinh đã khiến con người, từ thời cổ đại, đặt những bông hồng lên các nấm mộ, và Hecate, nữ thần âm phủ đôi khi được thể hiện với hình ảnh đầu quấn một vòng hoa hồng có 5 lá.

Hoa hồng đã trở thành biểu tượng của tình yêu và còn hơn thế, của sự dâng hiến tình yêu, của tình yêu trong trắng (còn trinh), tương tự ý nghĩa của hoa sen Ai Cập và cây thủy tiên Hy Lạp.

Biểu tượng một số loại hoa hồng: Hoa hồng phấn: Biểu tượng của vẻ đẹp nhã nhặn, duyên dáng, nữ tính, hoa hồng cũng chở những ý nghĩa khác nhau tùy thuộc vào độ đậm nhạt. Màu hồng đậm thể hiện lòng biết ơn, cảm kích, trong khi màu hoa hồng nhạt lại có ý nghĩa duyên dáng thanh lịch, khâm phục, hạnh phúc. Hoa hồng 7 màu: Loại hoa hồng nhiều màu sắc, còn được biết tới với tên gọi hoa hồng hạnh phúc hay hoa hồng bảy sắc cầu vồng. Đó là sự kết hợp tinh tế những điều tưởng như không thể. Tặng hoa hồng 7 màu mang ý nghĩa thể hiện sự quyết tâm đạt được điều mình mong ước. Hoa hồng trắng: Mẫu mực, khiêm tốn, trong sáng ngây thơ, hoa hồng trắng – thường là hoa cho cô dâu, là loài hoa của tình yêu tuổi trẻ. Tại Scotland, khi hoa hồng trắng nở vào mùa thu, đó là dấu hiệu của mùa cưới tới sớm.

Cũng là biểu tượng của sự chân thật, tôn kính, nó truyền đi thông điệp của lòng trung thành, với lời “anh xứng đáng với em.” Hoa hồng vàng: Trong thời đại Victoria, màu vàng là biểu tượng của lòng ghen tuông, ngày nay nó biểu hiện tình bạn, sự quan tâm và niềm vui. Một bó hoa hồng vàng cả nụ sẽ mang tới sự ấm áp, sự say mê, hân hoan. Hoa hồng cam: Với sự ấm áp, những âm điệu ngân nga, màu cam biểu thị sự nhiệt tình, mong mỏi. Nếu bạn đang tìm cách biểu lộ lòng hâm mộ và sự lôi cuốn với một thông điệp thầm kín về nỗi đam mê rạo rực, hãy gửi bó hoa với những bông hồng cam đã nở rực rỡ. Hoa hồng tím: Hiếm và bí ẩn trong tự nhiên, với biểu tượng niềm say mê thèm khát, bất chấp tất cả, không ngạc nhiên rằng hoa hồng tím là thông điệp cho một tiếng sét ái tình, một loài hoa tuyệt vời cho ngày lễ tình yêu.

Hoa hồng đen: Hoa hồng đen – loài hoa mang sắc màu thần thoại và bí ẩn. Không rực rỡ và nổi bật như những loài hoa khác nhưng Hoa hồng đen” luôn luôn là loài hoa đẹp trên bình diện tinh thần – loài hoa tượng trưng cho những đam mê, khát khao. Hoa hồng đen không ồn ào khi xuất hiện, loài hoa này còn tượng trưng cho sự cô đơn và lạnh lùng. Hoa hồng song hỷ: Hoa hồng song hỷ một loại hoa hồng có cánh màu trắng ngà nhưng lại có viền màu hồng nhạt. Nó thể hiện sự hòa hợp giữa 2 con tim khác nhau hòa chung nhịp đập với nhau, thể hiện sự hợp nhất.Hoa hồng tỉ muội: Hoa hồng tỉ muội mang ý nghĩa như tên của nó. Nếu bạn được ai đó tặng những đóa hoa hồng tỉ muội, như thế bạn nên hiểu rằng người đó coi mình như người thân – anh em hoặc chị em.

Hoa hồng xanh: Nói đến hoa hồng, người ta thường nghĩ đến màu đỏ thắm – màu tiêu biểu nhất của loài hoa này. Nhưng giờ đây, nhờ vào một nghiên cứu của các nhà khoa học, bạn có thể nghĩ đến việc tặng cho người mình yêu thương những đóa hồng màu… xanh da trời – màu tượng trưng cho sự an bình và hy vọng. Hoa hồng đỏ: Không ai là không biết biểu tượng về tình yêu của hoa hồng đỏ. Ngày lễ tình yêu thật khó có thể thiếu những đóa hồng đỏ thắm, biểu tượng cơ bản của tình yêu lãng mạn và niềm đam mê bền bỉ, hoa hồng đỏ cũng có ý nghĩa của sự tôn trọng và tinh thần sáng tạo trong tình yêu. Thể hiện tình yêu đích thực mạnh hơn mọi chông gai, hoa hồng đỏ là đại diện cho loài hoa tình yêu khắp toàn cầu. Hoa hồng bất tử: Hoa hồng bất tử luôn luôn tươi mới mà vẫn giữ nguyên vẹn màu sắc tự nhiên cũng như tình yêu sẽ mãi theo thời gian.

Dưới đế chế La Mã, hoa hồng được trồng rộng rãi ở vùng Trung Đông. Chúng được dùng trang trí các buổi tiệc, hay được dùng làm thảo dược và nước hoa. Hoa hồng là một loại hoa có giá trị kinh tế cao, nhiều chủng loại với màu sắc đa dạng, được sử dụng nhiều dưới dạng hoa cắt cành và hoa chậu, hoa cảnh. Ngoài ra, hoa hồng còn được dùng để chưng cất nước hoa, tinh dầu cũng như được sử dụng khá nhiều để điều chế mỹ phẩm. Tinh dầu hoa hồng là một trong những tinh dầu thơm nhất và có nhiều công dụng nhất, chất an thần, làm chịu các chứng bệnh về tiêu hóa, trị đau nhức, căng thẳng thần kinh, suy nhược, mất ngủ, rối loạn kinh nguyệt.

Ngày nay, khá nhiều chị em phụ nữ sử dụng hoa hồng để pha chế nước hoa hồng để dưỡng da; dùng để xông hơi hoặc tắm. Nước hoa hồng có tác dụng như một loại sữa làm mát dịu và làm sạch da. Tắm bằng nước hoa hồng là một liệu pháp hoàn hảo chống lại các bệnh ở thần kinh, làm sạch da, làm dịu những lo lắng và mang lại sự thư thái, sảng khoái cho con người. Cánh hoa hồng ngâm dấm chua cũng tạo ra một dung dịch khử mùi hôi và sát trùng.

Trong y học, người ta cũng khám phá ra rất nhiều công dụng của hoa hồng. Trong cánh hoa hồng có chứa rất nhiều các loại chất như vitamin C, carotene, các loại vitamin nhóm B, vitamin K, canxi, kali, … Các chất này rất tốt cho các cơ quan trong cơ thể như tim, hệ tiêu hóa, miễn dịch, … Các nghiên cứu ở khoa Dược, Đại học UM’S Malaysia cho biết có thể phòng ngừa ung thư và làm hạ huyết áp bằng nước ép hoa hồng. Đồng thời, nhiều công trình nghiên cứu đang nghiên cứu chế biến loại trà và nước giải khát từ hoa hồng để điều trị bệnh cao huyết áp.

Các nhà khoa học cũng cho biết, vi khuẩn sẽ chết trong vòng 5 phút sau khi tiếp xúc với cánh hoa hồng tươi. Điều này sẽ làm cho hoa hồng trở thành một loại dược phẩm hoàn hảo để chống lại các bệnh về da. Cánh hoa hồng tươi còn hạn chế mưng mủ vết thương và vết bỏng. Chúng cũng có thể làm dịu những vết ngứa do dị ứng gây ra. Theo y học cổ truyền, hoa hồng có vị ngọt, tính ấm, tác dụng hoạt huyết, điều kinh, tiêu viêm, tiêu sung. Hồng đỏ (mai khôi hoa) dùng làm huyết mạch lưu thông, chữa kinh nguyệt không đều, đau ở vùng bụng dưới, vết sưng tấy, đinh nhọt và viêm mủ da, bệnh bạch cầu. Hoa hồng trắng chứa nhiều vitamin, đường, tinh dầu, dùng chữa ho trẻ em rất công hiệu, còn có tác dụng nhuận tràng. Trà hoa hồng vừa là một bài thuốc chữa cảm lạnh, viêm họng, viêm phổi và các chứng loạn thần kinh chức năng, đồng thời cũng là một đồ uống giàu vitamin.

Hoa hồng có ý nghĩa vô cùng tốt đẹp trong đời sống sinh hoạt cũng như tinh thần của con người. Qua mỗi loài hoa chúng ta lại hiểu hơn về tầm quan trọng cũng như vị thế của nó trong đời sống. Hoa hồng tượng trưng cho cái đẹp, cái đẹp đó cần được nâng niu và bảo vệ.

Thuyết minh hoa hồng chi tiết Thuyết minh về hoa hồng – Mẫu 1

Các bạn có biết loài hoa nào tượng trưng cho tình yêu không? Chắc hẳn ai cũng biết câu trả lời đó chính là hoa hồng – nữ hoàng của các loài hoa. Nhắc đến hoa hồng là nhắc đến sự ngọt ngào giống như màu hồng của tình yêu vậy chính vì thế hoa hồng luôn là sự lựa chọn không tồi để làm quà tặng người mình yêu thương.

Hoa hồng đã xuất hiện từ rất lâu, nó có xuất xứ từ vùng ôn đới và nhiệt đới phía bắc bán cầu Bắc. Ở đất nước Việt Nam ta hoa hồng được trồng ở rất nhiều nơi từ miền núi, trung du cho đến đồng bằng châu thổ. Hoa hồng không phải vô tình cũng chẳng phải vô ý mà hoa hồng lại được mệnh danh là nữ hoàng của các lời hoa. Sở dĩ nó được mệnh danh như vậy là bở sự toàn bích cả về màu sắc lẫn hương thơm. Nhờ vẻ ngoài rực rỡ quyến rũ và hương thơm quý phái nên hoa hồng rất được ưa chuộng.

Hoa hồng có nguồn gốc địa phương một số là xuất xứ từ Trung Quốc và các nước châu Âu. Hoa hồng có rất nhiều màu: hồng, trắng, vàng,… nhưng phổ biến nhất vẫn là màu hồng. Hoa hồng cũng được chia thành những loại khác nhau ví dụ như: hoa hồng nhung, hoa hồng quế, hoa hồng bạch tuyền, hoa hồng bạch văn khôi,… Hoa hồng nhung thì màu đỏ sẫm bông lớn lâu tàn và có hương thơm ngát rất quý. Còn hoa hồng bạch văn khôi thì có cánh màu trắng hơi pha chút hồng phớt, bông lớn hơn, cây hoa hồng bạch văn khôi có ưu điểm là rất dẻo dai sức chịu đựng tốt.. Hoa hồng bạch tuyền cánh mỏng và mềm có màu trắng tinh khiết nhìn rất mỏng manh thường được dùng để trang trí phòng khách trông rất sang trọng. Khi trẻ em bị ho nếu dùng cánh của hoa hồng này chưng với mật ong và quất để ngậm thì hiệu quả rất tốt. Cuối cùng là hoa hồng quế thì mọc thành từng chùm ở đầu cành có màu đỏ giống màu của lá cờ tổ quốc nhụy màu vàng tươi hương thơm ngát. Loài hoa này thường được các bà, các mẹ dâng vào Chùa vào những ngày lễ tết để thể hiện lòng thành kính với Đức Phật.

Các loài hoa được nói đến bên trên đều là những loại hoa gặp thông thường.

Nhưng những người yêu hoa hồng chắc hẳn sẽ không thể bỏ qua một giống hoa tuy không quý hiếm nhưng lại được nhiều người ưa chuộng bởi vẻ ngoài và sự gần gũi. Đó chính là hoa hồng dại hay còn được gọi với tên nụ tầm xuân cây nhỏ cành mềm mọc lan tràn ở khắp nơi mọc thành từng khóm chi chit trông rất xinh xắn dễ thương điểm tô cho sự nhẹ nhàng bình yên thơ mộng của những góc phố . Loài hoa này còn trở thành nguồn cảm hứng của biết bao thi nhân. Nụ tầm xuân đã xuất hiện trong thơ ca làm phương tiện để người nghệ sĩ gửi gắm những tâm tư tình cảm thầm kín của mình, thể hiện một khát vọng về tình yêu đúng với ý nghĩa và chức năng của hoa hồng:

Hoa hồng tương đối dễ trồng và thích nghi với các loại khí hậu khá tốt. Hoa hồng ưa ánh sáng, nhưng cũng hay bị sâu đục khoét cho nên người trồng cũng nên thường xuyên bắt sâu, tỉa bớt lá già để cho cây được xanh tốt.

Hoa hồng không chỉ được yêu thích bởi vẻ ngoài quyến rũ đa dạng và phong phú mà nó còn được ưa chuộng bởi ý nghĩa sâu sắc là tượng trưng cho tình yêu. Hoa hồng quả là một món quà lý tưởng làm quà tặng cho người mình thương!

Thuyết minh về hoa hồng – Mẫu 2

Cuộc sống như đẹp hơn nhờ sự tô điểm của các loài hoa từ những loài rực rỡ kiều diễm tới những loại giản dị, nhẹ nhàng. Trong đó, được mệnh danh “bà chúa của các loài hoa” chính là hoa hồng.

Có một câu chuyện thần thoại gắn liền với loài hoa này. Rosalia, tì nữ của nữ thần Mặt trăng và săn bắn đồng ý kết hôn đã khiến Diana vô cùng tức giận dùng tên bắn Rosalia. Nơi máu nàng chảy ra đã mọc ra một loại hoa màu trắng. Sau này nó được nhuộm màu đỏ bởi máu của nữ thần Venus. Ban đầu người ta gọi đó là Rosa, sau này thành Rose, dịch ra tiếng Việt là hoa hồng. Còn theo các nghiên cứu khoa học, nó đã xuất hiện khoảng ba mươi lăm triệu năm, từ khi sự sống Trái Đất khởi sinh. Nó đã trải qua một hành trình dài để trở thành loài hoa đẹp đẽ như hôm nay. Vào thế kỉ 18, Trung Quốc đã thuần hóa giống hoa hồng và phổ biến trên toàn thế giới.

Các bộ phận của hoa hồng cũng như đa số các loại cây là rễ, thân lá và cả hoa. Rễ của hoa hồng thuộc loại rễ chùm, không ăn sâu vào trong lòng đất. Bởi vậy chúng ta vẫn thường thấy hoa hồng được trồng trong chậu. Tuy vậy rễ vẫn có chức năng hút chất dinh dưỡng để nuôi cây. Thân hồng thuộc loại thân gỗ nhưng bụi thấp và đặc biệt có màu xanh lục, khá mảnh khảnh. Các cành cũng chỉ như chiếc đũa. Nhưng thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho loài cây tưởng như yếu ớt này một vũ khí sắc bén. Đó là những chiếc gai đâm tua tủa trên thân cành. Lá hồng hình bầu dục, ngắn và có các răng cưa ở viền. Một cành thường có ba lá. Là cây hoa nên hoa chính là bộ phận quan trọng nhất. Trước khi ra hoa phải trải qua giai đoạn nụ. Những nụ hoa hồng chúm chím xinh xinh như hình ánh nến được bao bọc bởi lớp áo xanh của đài. Khi hấp thủ đủ sinh dưỡng, các cánh hoa sẽ từ từ bung nở. Hoa hồng có nhiều lớp cánh xếp chồng so le lên nhau. Cánh nào cũng mịn màng, ở giữa là đốm nhụy vàng tươi. Hương thơm của nó lan tỏa khắp không gian thu hút đủ mọi ong bướm.

Theo các nhà khoa học có ba loại hoa hồng chính. Đầu tiên là hoa hồng cổ có khả năng chịu lạnh tốt và hương thơm cũng đậm hơn những loại khác. Hoa hồng hoang dã thường mọc tự do đôi khi chúng ta tình cờ bắt gặp. Còn loại cuối cùng chình là hồng hiện đại đã có sự can thiệp của con người trong cả việc chăm sóc và lai tạo.

Hoa hồng có rất nhiều màu sắc, mỗi màu lại mang một ý nghĩa khác nhau như màu đỏ tượng cho tình yêu mãnh liệt, màu trắng đại diện cho sự ngây thơ, màu vàng là món quà của tình bạn… Chưa kể ngày nay công nghệ hiện đại phát triển, người ta không ngừng lai tạo ra nhiều giống hoa hồng mới, thậm chí kết hợp nhiều màu trên cùng một bông hoa.

Hoa hồng tượng trưng cho cái đẹp mà cái đẹp sẽ đem đến cho con người niềm vui, niềm hoan lạc. Hoa hồng thường được chọn làm món quà để trao đi trong tất cả các dịp lễ như ngày quốc tế phụ nữ, lễ tình yêu hay ngay cat dịp sinh nhật… Hoa hồng cũng thường được các bà các mẹ lựa chọn trang trí trong nhà. No còn đi vào văn chương nghệ thuật và hội họa với những tầng bậc ý nghĩa khác nhau.

Biết bao đời nay, hoa hồng đã làm đắm say lòng người bởi sắc đẹp và hương thơm của nó. Nhờ hoa hồng, chúng ta thấy cuộc sống ngào ngạt hơn và tâm hồn cũng vì thế được nâng đỡ dịu dàng.

Thuyết minh về hoa hồng – Mẫu 3

Trong thế giới tự nhiên có vô vàn những loại hoa đẹp, rực rỡ. Mỗi loài hoa lại mang một đặc trưng, một nét đẹp khác nhau, và cũng chính điều đó đã làm nên sự phong phú, đa dạng cho thế giới thực vật nói chung, họ nhà hoa nói riêng.

Một trong những loài hoa khá tiêu biểu, quen thuộc đối với cuộc sống thường nhật của con người, đó là đóa hoa hồng.

Hoa hồng là một loài thực vật có hoa, thường mọc theo bụi, theo khóm. Thân của hoa hồng thẳng, có màu xanh đậm, trên thân mọc ra rất nhiều gai sắc nhọn. Lá của hoa hình trứng, đường diềm của lá có hình răng cưa, lá của hoa hồng mọc phân tán trên thân cây, đôi khi mọc sát vào bong hoa.

Hoa hồng cũng rất đa dạng về chủng loại, màu sắc, có hoa hồng nhung, hồng vàng, hồng trắng, hồng xanh…. Mỗi loại hoa hồng lại mang một vẻ đẹp riêng.Tuy có sự khác nhau về màu sắc nhưng về cơ bản hình dáng của hoa hồng tương đối giống nhau.

Ở những vùng nông thôn hay trong những gia đình thường có xu hướng trồng những cây hoa hồng ta, tức là loại hoa hồng nhỏ, thường có sắc đỏ thắm hoặc màu hồng nhạt.

Loại hoa hồng này thường mọc theo khóm khá rậm rạp, phát triển quy mô của nhóm cũng rất nhanh. So với những loại hoa hồng khác thì hoa hồng ta có kích thước thân cây,kích thước lá cũng như bông hoa nhỏ hơn rất nhiều. Hoa hồng ta có những cánh nhỏ mà khi nở sẽ có xu hướng nở bung ra nhiều cánh chứ không chụm cánh thành một tâm đối xứng như những bông hoa hồng thường thấy. Về diện mạo thì hồng ta có thể không được rực rỡ, bắt mắt người nhìn như hoa hồng thường nhưng nó có mùi hương đặc biệt thơm, đặc biệt khi được khuếch trương vào trong gió thì tạo ra một mùi hương phảng phất, dịu nhẹ vô cùng dễ chịu. Và thời gian nở của hoa hồng ta cũng được lâu hơn so với những bông hoa hồng thường, từ khi bắt đầu nở rộ thì phải đến vài tuần sau thì bông hoa mới tàn.

Hiện nay, do nhu cầu tiêu dùng cũng như nhu cầu về thẩm mỹ của mọi người ngày càng cao nên hoa hồng được nhân giống thành nhiều mẫu mã hoa vô cùng đẹp mắt.

Nếu trước đây chỉ có những đóa hồng nhung hoặc hồng trắng thì ngày nay người ta đã nhân giống thành công hoa hồng xanh ( có thể là xanh dương hoặc xanh lá mạ), hoa hồng vàng, hoa hồng tím vô cùng bắt mắt, thu hút được thị hiếu của người mua.

Nếu những bông hồng ta thường phát triển theo khóm, một khóm có thể có rất nhiều bông hoa, nhưng những bông hồng được bán trên thị trường ngày nay thì mọc độc lập trên một thân cây,thân thẳng tắp, mỗi cây chỉ phát triển được một bông chúng tôi đó mà bông hoa hồng này thường to hơn, màu sắc đẹp hơn, đáp ứng được nhu cầu sử dụng của người mua hàng. Mỗi loài hoa đều trở nên đặc biệt bởi nó chứa đựng những ý nghĩa, những biểu trưng cho những nội dung nhất định.Và hoa hồng càng đặc biệt hơn bởi nó có một ý nghĩa vô cùng thiêng liêng.

Người ta gọi hoa hồng là “ hoa của tình yêu”. Đúng vậy, những đóa hoa hồng là biểu tượng của tình yêu mãnh liệt, cho sự cuồng nhiệt, thủy chung của tuổi trẻ.

Hoa hồng là loài hoa có thể được coi là biểu tượng của tình yêu, chúng ta đều thấy được giá trị của nó đối với cuộc sống của chính mình, nó không chỉ là biểu tượng đẹp của cuộc sống và nó đã mang lại những điều có ý nghĩa nhất. Vẻ đẹp của nó có thể được đánh giá rất cao bởi bông hoa hồng thân rộng, hương thơm tỏa ra ngào ngạt, nó có thêm nhiều sức sống và giá trị sống của mỗi con người, mỗi chúng ta đều thấy được vẻ đẹp của nó đem tặng cho cuộc sống, bông hoa thơm ngát, nở rộ trên khoảng không gian trong cuộc sống để tạo nên những giá trị to lớn dành tặng cho mỗi người.

Chúng ta đều thấy giá trị và vẻ đẹp của nó, những hình ảnh của hoa hồng đem lại cho chúng ta những điều tố lành và những giá trị biểu tượng mãnh liệt nhất.Hình ảnh hoa hồng luôn luôn làm cho cuộc sống của chúng ta ngập tràn niềm vui và thêm yêu thương cuộc sống của chúng ta mỗi ngày, những hình ảnh đẹp và gợi nhiều sức sống cảm giác về đời sống tinh thần của chúng ta đang ngày càng được cải thiện và tươi đẹp.

Có lẽ cũng vì mang nhiều ý nghĩa đặc biệt như vậy nên hoa hồng đã trở thành một loại hoa phổ thông, vô cùng quen thuộc và có ý nghĩa đối với cuộc sống của con người. Nó đem lại may mắn và ý nghĩa biểu trưng của hoa hồng là biểu tượng của tình yêu những tình yêu nồng cháy và da diết, hoa hồng luôn phát huy được vẻ đẹp của mình qua những ý nghĩa giàu sức sống nhất.

Thuyết minh về hoa hồng – Mẫu 4

Trong thế giới tự nhiên, có rất nhiều những loại hoa, nhưng mỗi loài hoa lại mang những vẻ đẹp riêng biệt, độc đáo khác nhau. Chúng không chỉ tươi thắm, rực rỡ, ngát hương thu hút thị giác và khứu giác của con người mà còn được con người yêu thích và ưu ái đặt cho nó những biệt danh, những ý nghĩa đặc biệt. Trong tất cả những loài hoa, loài mà em yêu thích nhất đó là hoa hồng nhung, loài hoa được con người rất yêu thích và đặt cho nó một cái tên đầy lãng mạn, đó là loài hoa của tình yêu.

Hoa hồng là một loại thực vật có hoa thân thẳng, có gai. Hoa hồng thường mọc thành bụi, thân cây thẳng, lá mọc phát triển từ dưới thân lên trên bông hoa. Hoa hồng thường có rất nhiều cánh, chúng mọc chụm vào với nhau tạo thành hình như một chiếc chén, nó đặc biệt trở nên rực rỡ khi nở bung các cánh, vì khi này hoa hồng khoe sắc trọn vẹn cái vẻ đẹp vốn có của nó. Lúc này ta cũng có thể nhìn thấy nhụy của hoa hồng. Nhụy của hoa hồng là những sợi mảnh có màu vàng trông rất rực rỡ. Sự kết hợp giữa sắc vàng của nhụy hoa và sắc hồng của bông hoa tạo ra một vẻ đẹp rực rỡ, kiều diễm. Lá của hoa hồng thường có dạng hình trứng, màu xanh đậm và đường diềm của lá có hình răng cưa. Cùng với nhụy, lá của hoa hồng cũng là một bộ phận làm cho màu sắc của bông hoa trở nên hài hòa, rực rỡ hơn.

Hoa hồng cũng có rất nhiều màu sắc, có hoa hồng nhung với sắc đỏ thắm tượng trưng cho tình yêu mãnh liệt, da diết. Có lẽ chính cái sắc đỏ thắm đã gợi cho con người ta liên tưởng đến sự nóng bỏng, nồng nhiệt của tình yêu, sắc hồng trắng tinh khôi, thanh bạch lại tượng trưng cho tình yêu đầu đời trong sáng, ngây thơ, hồn nhiên. Sắc vàng của hoa hồng lại gợi ra vẻ nền nã nhưng không kém phần cao cả của tình yêu. Hồng xanh tinh khôi, mới lạ lại mang đến sự tươi mới cho tình yêu đôi lứa. Hoa hồng cũng có thể chia làm hai loại hoa chính, đó là hoa hồng ta, tức hoa hồng được trồng ở các gia đình, đặc biệt là các vùng quê. Loại hoa hồng này mọc thành bụi, thân cây mảnh và không thẳng như những bông hoa hồng mà ta thường thấy bày bán trên thị trường, cả hoa và lá đề mảnh, nhỏ hơn rất nhiều. Những bông hoa hồng ta thường có xu hướng nở xòe những cánh, đối xứng với tâm của bông hoa.

Hoa hồng ta rất khó bọc thành bó hay cắm vào lọ vì thân hoa không thẳng, lá nhiều và rất nhỏ. Hoa bông nhỏ hơn rất nhiều so với hoa hồng thường. Loài hoa này thường được trồng để làm cảnh ở trong vườn, trong chậu ở các gia đình, loài hoa này tuy nhỏ và có vẻ không được rực rỡ, đằm thắm như những bông hoa hồng thường thấy. Tuy nhiên, đổi lại thì hoa hồng ta lại có sức sống rất mạnh mẽ, cho dù thời tiết khắc nghiệt thì nó vẫn phát triển tươi tốt, mùi hương của những bông hoa hồng ta đặc biệt rất thơm, nó vương vấn, để lại trong lòng người một cảm giác rất khó quên. Còn loại hoa hồng ta thường thấy phổ biến hơn ở trên thị trường thì người ta thường gọi nó là hồng nhung hay tên hoa hồng nói chung để phân biệt với hoa hồng ta.

Khác với những đóa hồng ta mọc thành bụi, bông nhỏ, lá mảnh thì thân của hoa hồng thẳng, lá to và dày hơn rất nhiều, khi nở thì hoa hồng có xu hướng chụm vào nhau. Và khi buộc những bông hoa hồng này vài với nhau thì sẽ tạo thành một bó hoa tuyệt đẹp. Trong tình yêu đôi lứa, người ta thường chọn tặng nhau những bông hồng vẫn chúm chím chuẩn bị nở, bởi người ta quan niệm lúc đấy là lúc hoa hồng đẹp nhất cũng là lúc tình yêu thăng hoa, tươi đẹp nhất.Nét đặc biệt của hoa hồng là loài hoa đại diện cho tình yêu, cho tình cảm chân thật, mãnh liệt. Vì vậy, để tặng cho nhau nhân những ngày lễ đặc biệt hay những ngày kỉ niệm thì đôi lứa thường đặc biệt chọn mua hoa hồng. Bởi tình yêu cũng đẹp, cũng đang độ nở như những đóa hồng. Mùi hương dịu nhẹ nhưng vấn vít lòng người cũng giống tình yêu đôi lứa nhẹ nhàng nhưng đầy mãnh liệt, da diết. Không chỉ có đôi lứa lựa chọn hoa hồng là loài hoa tình yêu mà đối với những người nội chợ, những người khác cũng cùng có sở thích đối với hoa hồng. Vì vậy hoa hồng là một loại hoa rất phổ biến trong đời sống sinh hoạt của người dân.

Ngày nay, đời sống của người dân được cải thiện nên nhu cầu về thẩm mĩ của con người cũng cao hơn. Nếu như bình thường thì chỉ có những ngày lễ hay dịp đặc biệt mới mua hoa hồng về cắm nhưng ngày nay người ta vẫn có thể mua hoa hồng để cắm lọ, trang hoàng nhà cửa cho rực rỡ, sắc màu hơn. Hoa hồng là một loài hoa đẹp, nét đẹp của hoa hồng không chỉ ở màu sắc tươi thắm, ở hương thơm dịu mát, vấn vương mà còn được yêu thích bởi chính ý nghĩa mà nó biểu trưng, đại diện. Hoa hồng cũng là một loài hoa rất phổ biến. Ngày nay để đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ ngày càng cao của con người thì người ta càng nhân giống ra các loài hoa hồng khác nhau về màu sắc, hình dáng. Tạo ra sự phong phú cho họ nhà hoa.

Thuyết minh về hoa hồng – Mẫu 5

Hoa hồng được coi là loài hoa đẹp nhất trong các loại hoa bởi nó tượng trưng cho tình yêu mãnh liệt.

Hoa hồng như cái tên của nó – rất đẹp, nhưng cũng rất “nhọn”. Từ gốc đến ngọn được bao trùm bởi gai nhọn. Lá hoa hồng tròn trịa được viền răng cưa xung quanh. Nụ hồng chúm chím thường được như đôi môi đỏ hồng của các cô thiếu nữ. Dĩ nhiên, Hoa hồng còn đẹp bởi mùi hương quyến rũ, mê hoặc. Hương hoa hồng vô cùng dễ chịu, nồng nàn, lan tỏa…

Hoa hồng đỏ được xem là hoa thánh dành riêng cho thần Vệ nữ. Truyền thuyết về hoa hồng gắn liền với truyền thuyết về tình yêu của thần thánh. Hoa hồng không chỉ là nữ hoàng các loài hoa bởi vẻ đẹp kiêu sa và hương thơm quyến rũ, mà còn là một dược phẩm quý của thiên nhiên với những công dụng làm đẹp. “Hoa hồng có gai” vinh dự được gán cho những người đẹp.

Trong khi mỗi loài hoa đều có một câu chuyện tuyệt vời để kể, hoa hồng lại riêng biệt với vô vàn truyền thuyết và ý nghĩa. Nhiều đến độ chúng ta không thể không dành cho hoa hồng một cách đối xử ưu ái và một không gian riêng biệt với những biểu tượng phong phú của mình.

Được sử dụng từ hàng trăm năm nay để truyền tải thông điệp tình yêu phi ngôn ngữ, hoa hồng là một biểu tượng của niềm tin. Cụm từ tiếng Latinh sub rosa – dưới hoa hồng, ám chỉ một điều đang được giữ trong bí mật.

Thuyết minh về hoa hồng – Mẫu 6

“Nữ hoàng của các loài hoa” Đó là cái tên kiêu sa mà người ta đặt cho hoa hồng. Không nhẹ nhàng như hoa bưởi, không rực rỡ như hoa phượng, không vàng tươi như hoa cúc. Hoa hồng mang một vẻ đẹp đằm thắm, bí ẩn khiến bao người đem lòng yêu.

Hoa hồng có xuất xứ từ xứ sở Ba Tư xa xôi. Hoa hồng có một lịch sử lâu đời và chúng là biểu tượng của tình yêu, sắc đẹp, chiến tranh và chính trị. Theo các mẫu hóa thạch thì hoa hồng đã có mặt cách đây 35 triệu năm. Vào khoảng 3000 năm trước công nguyên, người Sumerian, nay thuộc Iraq, đã có những ghi nhận đầu tiên về hoa hồng, khoảng 600 năm trước công nguyên, những bài thơ ca về hoa hồng đã ra đời, chúng ca ngợi vẻ đẹp hoa hồng như là nữ hoàng của các loài hoa. Hoa hồng phân bố rất rộng lớn từ Alaska cho đến Mexico và ở cả Bắc Phi. Ở mỗi nơi có đặc điểm khí hậu khác nhau lại có những loài hoa hồng khác nhau.

Hoa hồng thuộc giống thân cỏ. Thân cây mảnh chỉ bằng chiếc đũa, mang một xanh sẫm. Khắp thân nhỏ ấy là những chiếc gai nhọn bao phủ để bảo vệ cây khỏi kẻ thù. Vì thế khi hái hoa và chăm sóc chúng ta phải cẩn thận với những chiếc gai có thể làm chúng ta chảy máu này. Cành hoa hồng mang những chiếc lá hình bầu dục với rìa ngoài như mép răng cưa với hệ thống gân hình mạng nhện. Nhụy hoa được đặt trang trọng ở phần ngọn, nhỏ bé và được bao bọc lớp đài hoa phía dưới. Khi nở là lúc hoa hồng toả sắc đẹp kiêu hãnh của mình. Bông hồng có hình chiếc chén. Từng cánh hoa chụm vào nhau duyên dáng. Hoa hồng có nhiều cánh, xếp thành từng lớp. Cánh hoa hồng mềm và mịn. Hương hoa không ngào ngạt như hoa sữa mà thơm thoang thoảng. Một mùi hương dìu dịu mà quyến rũ.

Hoa hồng đa dạng và phong phú về loài. Theo như các nhà khoa học tìm hiểu thì có tới hơn 150 loài. Trước đây tự nhiên chỉ có những loài hồng nhung hoặc hồng trắng. Những bông hoa hồng màu sắc chủ yếu là đỏ thắm hoặc hồng phấn và có nhiều bông có sắc trắng tinh khôi. Cùng với xu hướng thị hiếu ngày càng cao, ngày nay người ta đã nhân giống thành công nhiều loại hoa hồng mới như hồng xanh, hồng vàng, hồng tím, hồng đen, hồng bảy sắc… vô cùng bắt mắt. Có nhiều cánh đồng hoa hồng màu sắc rực rỡ ở Châu Âu hay những ngày hội Hoa hồng hàng năm đủ để thấy sự phong phú đa dạng của hoa hồng.

Hồng trở thành loài hoa quen thuộc và gắn bó với cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Hoa hồng được trồng rất nhiều nơi. Ở Việt Nam có Đà Lạt là nơi trồng rất nhiều hoa hồng. Hoa ở đây rất đẹp và thơm. Nhiều xe buôn lên đây mua từ những vườn hồng những bó hoa lựa chọn kĩ càng mang về bán lại cho người dân theo nhu cầu của họ. Hoa hồng được dùng để trang trí trong các lọ thuỷ tinh, lọ sứ,… đầy kiêu sa. Căn phòng nhỏ có một lọ hoa hồng mang lại cảm giác dễ chịu và thẩm mĩ cao. Do cánh hoa hồng có khả năng thanh trùng, kháng khuẩn nên được sử dụng làm siro chữa ho, rất tốt cho trẻ nhỏ. Cánh hoa còn được dùng để chiết làm nước hoa. Nhiều nhãn hàng nước hoa nổi tiếng trên thế giới sử dụng hoa hồng làm thành phần chính: Chanel, Gucci,… Cánh hoa có khả năng thanh trùng nên được dùng làm nước tẩy trang rất tốt cho da người sử dụng.

Với vẻ đẹp, hình dáng cùng hương thơm nổi bật, hoa hồng là hoa biểu trưng được dùng nhiều nhất ở các nước phương Tây, nhất là Pháp. Trong văn hóa Ấn Độ, bông hồng được ví với vẻ đẹp của người Mẹ thánh thần, biểu thị một sự hoàn mĩ trọn vẹn và không có thiếu sót. Trong Kitô giáo, hoa hồng là sự hóa thân của những giọt máu, là chính vết thương của Chúa, nó trở thành biểu tượng của sự phục sinh huyền bí.

Chính vì hoa hồng là biểu tượng của tình yêu, lòng chung thuỷ, sự kính trọng mà hoa hồng còn là những món quà đơn giản dành tặng nhau. Ngày 20 – 10 người đàn ông sẽ tặng vợ, tặng mẹ,… những đóa hoa hồng đỏ thắm. Những ngày lễ tình yêu các chàng trai sẽ mua những bó hoa hồng tặng bạn gái thay lời yêu thương. Hay những ngày 20 – 11 học sinh mua bông hồng nhỏ tặng người thầy người cô kính trọng.

Hoa hồng có cách trồng đơn giản nhưng phải chăm sóc kĩ càng và cẩn thận để hoa có thể khoe hết được sắc đẹp của mình. Khi con người còn yêu hoa thì mãi mãi hoa hồng còn là biểu tượng sắc đẹp của muôn loài hoa.

Thuyết minh về hoa hồng – Mẫu 7

Mỗi loài hoa đều mang trong mình những vẻ đẹp và ý nghĩa khác nhau. Nếu như hoa đào đem đến không khí Tết an khang, hạnh phúc. Hoa đồng tiền tượng trưng cho sự may mắn. Thì cũng không thể kể đến loài hoa xinh đẹp và kiều diễm như hoa hồng.

Cây hoa hồng có tên khoa học là Rose, có xuất xứ ôn đới và á nhiệt đới, vùng bắc bán cầu. Theo các nhà khoa học, thực vật học thì hoa hồng đã xuất hiện trên trái đất khoảng vài chục triệu năm, còn cây hoa hồng được con người thuần chủng đưa vào trồng trọt cũng đã cách nay khoảng vài ngàn năm. Phần lớn có nguồn gốc bản địa châu Á, số ít còn lại có nguồn gốc bản địa châu Âu, Bắc Mỹ, và Tây Bắc Phi. Các loài bản địa, giống cây trồng và cây lai ghép đều được trồng làm cảnh và lấy hương thơm. Ngày nay, cây hoa hồng đã được nhân rộng và trở thành loài hoa phổ biến trên khắp cả nước.

Advertisement

Hoa hồng thuộc học rễ chùm, là loại cây thân gỗ bụi, thân và cành có gai nhọn, đó là một trong những nét đặc trưng của cây hoa hồng. Đây là các cây bụi mọc đứng hoặc mọc leo, thân và cành có gai. Thân cây mảnh chỉ bằng chiếc đũa, mang một xanh sẫm. Khắp thân nhỏ ấy là những chiếc gai nhọn bao phủ để bảo vệ cây khỏi kẻ thù. Lá kép hình bầu dục, lá chét khía răng, có lá kèm. Hoa thơm, màu sắc đa dạng: hồng, trắng, vàng hay đỏ… Hoa thường có nhiều cánh, từng cánh hoa chụm vào nhau duyên dáng do nhị đực biến thành. Đế hoa hình chén. Quả bế, tụ nhau trong đế hoa tôn dày lên thành quả. Cây hồng đang độ trổ hoa, ở đầu mỗi cành có nhiều nụ lớn bằng đốt ngón tay, được bao bọc trong một lớp đài hoa màu xanh nhạt. Những nụ chị, nụ em chi chít, âm thầm chuẩn bị đến ngày khoe sắc, khoe hương. Hoa hồng khi hái về nhà có thể để được vài ngày với mùi hương dịu nhẹ lan tỏa khắp không gian.

Họ hàng nhà hồng rất đông, có nhiều loại có hoa hồng nhung màu đỏ thắm, cánh mịn, có loại hồng phấn. Ngày nay thì hoa hồng có nhiều màu khác nhau như màu tím, vàng, xanh,… Có rất nhiều những cánh đồng hoa hồng ở Châu Âu. Đến nơi đấy, tận hưởng vẻ đẹp của hoa hồng thì thật thích mắt. Nếu những bông hồng ta thường phát triển theo khóm, một khóm có thể có rất nhiều bông hoa, nhưng những bông hồng được bán trên thị trường ngày nay thì mọc độc lập trên một thân cây, thân thẳng tắp, mỗi cây chỉ phát triển được một bông hoa. Do đó mà bông hoa hồng này thường to hơn, màu sắc đẹp hơn, phù hợp với nhu cầu cho người sử dụng. Trên thị trường thì tùy thuộc vào từng loại hoa hồng với những giá cả theo mức phù hợp.

Hoa hồng ngày nay càng trở nên thân thuộc và gần gũi với mỗi con người Việt. Ở Việt Nam thì trồng chủ yếu là ở Đà Lạt với loài hoa đẹp. Hoa hồng còn được mệnh danh là “nữ hoàng của các loài hoa”. Hoa hồng có rất tác dụng. Hoa hồng được biết đến là loài hoa tượng trưng cho tình yêu, nhiều người thường chọn hoa hồng để gửi gắm những thông điệp yêu thương đến những người thân yêu của mình. Hoa hồng còn được dùng để trang trí phòng, để làm hoa nhân ngày sinh nhật. Ngày 20/11 hoa hồng được dùng rất nhiều trong dịp này để tri ân thầy cô. Hương thơm của hoa hồng lan tỏa khắp không gian tạo nên một mùi hương dễ chịu, sảng khoái tinh thần, tránh căng thẳng. Ngay từ thời cổ đại, hoa hồng được sử dụng là một phương pháp làm tăng hiệu ứng tích cực cho cơ thể con người, như tác động lên tâm trí và được sử dụng để làm đẹp da, người ta đã sử dụng hoa hồng làm ra nhiều loại nước hoa. Bên cạnh đó, hoa hồng không chỉ có tác dụng làm đẹp hoa hồng còn dùng làm thuốc chữa bệnh như mụn nhọt, dân gian còn dùng cánh hoa hồng hấp với đường phèn để chữa bệnh ho cho trẻ em.

Hoa hồng không biết tự bao giờ đã trở thành loài hoa gần gũi với con người chắc cũng bởi những vẻ đẹp kiêu sa và công dụng to lớn của nó. Hãy biết chăm sóc tốt cho loài cây này để nó mãi mang hương sắc cho đời, cho cuộc sống thêm tươi đẹp.

Thuyết minh về hoa hồng – Mẫu 8

Không biết tự bao giờ, cây hoa hồng đã trở thành một loài hoa tôn quý, vẻ đẹp của nó không thanh cao như hoa mai, không sặc sỡ như hoa ngũ sắc. Nhưng nó mang một vẻ đẹp mềm mại mà nhẹ nhàng, êm đềm như tình cảm của con người.

Cây hoa hồng có tên khoa học là Rose, thuộc họ hoa hồng, có xuất xứ ôn đới và á nhiệt đới, vùng bắc bán cầu. Theo các nhà khoa học, thực vật học thì hoa hồng đã xuất hiện trên trái đất khoảng vài chục triệu năm, còn cây hoa hồng được con người thuần chủng đưa vào trồng trọt cũng đã cách nay khoảng vài ngàn năm. Người ta khẳng định hoa hồng đầu tiên ở Trung Quốc và Tiểu Á, sau đó mới du nhập vào châu Âu, những người châu Âu lại có công lai tạo ta giống hoa hồng hiện đại ngày nay. Trên thế giới, mỗi khi nhắc đến đất nước Bungari, người ta lại nhắc đến cây hoa hồng. Nếu như nói Nhật Bản là xứ sở của hoa anh đào thì Bungari lại là xứ sở của hoa hồng. Cây hoa hồng được trồng ở hầu khắp cả nước ta, đặc biệt là Đà Lạt.

Hoa Hồng thuộc họ rễ chùm, là loại cây thân gỗ bụi, thân và cành có gai nhọn, đó là một trong những nét đặc trưng của cây hoa hồng. Lá hoa hình bầu dục, rìa lá có răng cưa, gân lá hình mạng. Cánh hoa còn tùy thuộc vào từng loại hoa hồng. Hồng nhung Đà Lạt có thể xem là loại hồng đẹp nhất nước ta, cánh hoa mềm mại, xếp chồng xen kẽ lên nhau, gần như hình trái tim mang một màu đỏ tươi thắm, nó như hội tụ tất cả những tinh túy của đất trời, của cuộc sống, của thế giới các loài hoa. Hoa hồng có ba loại chính, đó là: hoa hồng dại, hoa hồng cổ điển và hoa hồng hiện đại.

Hồng dại thường được thấy ở những nơi hoang dã, mọc ngoằn nghèo nên còn gọi là hồng leo. Hồng cổ điển là những giống hồng được thuần chủng, lai tạo từ trước năm 1867. Còn hồng hiện đại là những giống hồng được lai tạo từ sau năm 1867. Ở nước ta, hoa hồng còn được phân loại theo đặc tính của cây như: hồng cứng, hồng thạch, hồng quế, hồng cánh sen, hồng vàng…

Cây hoa hồng như một món quà thiên nhiên đã ban tặng cho con người chúng ta, nó làm phong phú thêm đời sống vật chất và tinh thần của con người. Người ta nói, hoa hồng tượng trưng cho tình yêu: tình yêu gia đình, tình mẫu tử, tình thầy trò, tình yêu đôi lứa… Cây hoa hồng như mang trong nó tâm linh của loài người, mỗi cánh hoa như ấp ủ một nỗi niềm, một tình cảm sâu lắng nào đó của con người. Trong ngày lễ “vu lan”, vào chùa chúng ta thường thấy những bông hồng cài trên ngực áo thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng, rồi đến ngày Nhà giáo Việt Nam, từng lớp học trò lần lượt mang những cánh hồng đỏ thắm dâng tặng lên thầy, cô kính yêu như thể hiện lòng biết ơn. Ngày lễ Valentine, ngày 8/3… chúng ta cũng không quên những bông hồng xinh xắn tặng cho các mẹ, các chị và đặc biệt là người yêu mình. Cứ như thế, cây hoa hồng đi vào thơ ca một cách tự nhiên không biết từ lúc nào, chúng ta thường nghe câu nói dân gian Hoa đẹp là hoa có gai, câu nói đó ám chỉ cây hoa hồng, rồi ta cũng thường nghe bài hát Bông hồng cài áo, đọc tác phẩm Hoa hồng Bungari…

Không những phục vụ cho đời sống tinh thần, hoa hồng được phục vụ cho đời sống vật chất của con người. Một phòng họp, một phòng khách, một quán trà… có thêm một cành hồng trên bàn cùng đủ làm cho không gian thêm trang trọng và lãng mạn. Có thể nói rằng hoa hồng có tính trang trí cao. Hương hoa hồng không thơm ngát như hoa lài mà ngược lại rất nhẹ nhàng, dễ chịu. Vì vậy, hoa hồng được nhiều nước chọn nguyên liệu để làm nước hoa, mĩ phẩm, góp phần tôn lên vẻ đẹp của con người. Hoa hồng cũng được trồng để kinh doanh, thu lợi nhuận.

Nhìn chung, hoa hồng ở Việt Nam thích nghi nhiệt độ trung bình từ 18 – 25oC, độ ẩm tối đa 85%, lượng mưa trung bình hàng năm từ 1000-2000mm, độ pH từ 5,6 – 6,5. Trong mùa hè, do nhiệt độ lên cao, độ ẩm lớn cây hoa hồng có nguy cơ xuất hiện các loại bệnh như gỉ sắt, phấn trắng, rệp. Nếu cây bị nấm phấn trắng trong vụ xuân thì dùng đồng sulfat 1% để tưới, đồng thời phải cắt bỏ những cành bị bệnh nặng và đốt đi. Đất dùng để trồng hoa hồng phải bằng phẳng, tơi xốp.

Hoa hồng thường được nhân giống theo ba cách: giâm cành, chiết cành hoặc ghép cành.

Như thế, cây hoa hồng là loài hoa tượng trưng cho sắc đẹp và tâm tình, nó không thể thiếu trong đời sống vật chất lẫn tinh thần của con người. Vì vậy, bảo vệ và phát triển giống hoa hồng là điều cần thiết mà con người cần làm hiện nay.

Thuyết minh về hoa hồng – Mẫu 9

Mỗi khi nhắc đến thế giới loài hoa, thật khó có thể quên được loài hoa hồng kiêu sa, kiều diễm – loài hoa vốn được mệnh danh là “nữ hoàng của các loài hoa”. Đi sâu tìm hiểu về loài hoa này, chúng ta thấy có thật nhiều điều thú vị!

Hoa hồng vốn có nguồn gốc từ xứ sở Ba Tư xa xôi. Từ đất nước Ả-rập thần bí này, hoa hồng đến với khắp các quốc gia trên thế giới. Cho đến nay, có lẽ chưa có mảnh đất nào có bóng con người mà hoa hồng chưa đặt chân đến. Nhưng nổi tiếng nhất, có thể nhắc đến hoa hồng của những đất nước Bun-ga-ri. Một nhà thơ Việt nam đã từng thốt lên:

Hoa hồng Bun-ga-ri. Ôi! Loài hoa diệu kì!

Có lẽ chính vẻ đẹp và những ý nghĩa thiêng liêng của hoa hồng đã tạo nên sức hút diệu kì thu hút và chinh phục hàng triệu trái tim con người.

Hoa hồng thuộc giống thân cỏ và có rất nhiều loài. Có loài thân leo, có loài thân thẳng. Có loài không gai, có loài có gai. Tuy nhiên, phổ biến tiếp từ thân cây. Lá hoa thường có ba nhánh hình bầu dục, viền có răng cưa. Ngoài ra, trên thân cây thường có gai sắc, nhọn. Tuy nhiên, cũng có loài được lai ghép nên thân trơn nhẵn khiến người ôm hoa không sợ bị gai đâm. Nụ hoa được đặt trang trọng trên đỉnh của thân cây. Dưới nụ hoa xanh tươi còn có đài hoa nâng đỡ. Đủ ngày đủ tháng, nụ hoa bung nở hàng chục cánh hoa mềm mịn đan xếp vào nhau kiêu sa, quyến rũ. Cánh hoa hồng cũng có hình bầu dục, to hơn xu đồng tiền, cánh hoa rất mịn (“mịn như nhung”, nên có loài hoa hồng tên gọi là hồng nhung) và êm nhẹ. Đặc biệt, cánh hoa hồng thường có rất nhiều màu: màu đỏ, màu hồng, màu vàng, màu cam… Với mỗi màu lại có những sắc độ khác nhau: đỏ tươi, huyết dụ, đỏ nhung.

Hoa có rất nhiều tác dụng trong đời sống hàng ngày. Điều dễ thấy là hoa hồng được dùng để làm cảnh trong nhiều gia đình. Chúng ta trồng hoa hồng trong vườn nhà, chúng ta cắm hoa hồng trong lọ, chúng ta tặng nhau những đóa hoa hồng… Sở dĩ hoa hồng thường được trao tặng nhau một cách trang trọng như thế bởi hoa hồng có nhiều ý nghĩa. Hoa hồng đỏ tượng trưng cho tình yêu cháy bỏng, nồng nàn. Hoa hồng vàng thể hiện tình bạn cao quý, chân thành. Hoa hồng cam thể hiện sự thành đạt, hiển vinh… Số lượng hoa hồng trong mỗi đoá cũng mang những ý nghĩa nhất định thể hiện suy nghĩ của người tặng, đặc biệt là đối với những đoá hồng đỏ. Không chỉ dùng để làm đẹp, hoa hồng còn rất nhiều tác dụng khác. Từ cánh hoa hồng, nhiều quốc gia đã chiết xuất tinh dầu tạo nên những nền công nghiệp nước hoa khổng lồ như Bun-ga-ri, Pháp,… Cũng từ hoa hồng, dân gian ta chế ra những bài thuốc chữa nhiều bệnh thông thường: cảm, đau bụng,…

Có nhiều tác dụng như vậy nhưng hoa hồng không hề khó tính chút nào. Hoa có thể nở bốn mùa trong năm để dâng hương sắc cho cuộc đời đầy ý nghĩa này. Ở nước ta, hoa hồng đẹp nổi tiếng nhất là hoa hồng của cao nguyên Đà Lạt. Từ Đà Lạt, hoa hồng chẳng những đi khắp mọi nẻo đường đất nước mà hoa còn đến với bạn bè khắp năm châu.

….

Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Cốm Làng Vòng (Dàn Ý + 4 Mẫu) Văn Thuyết Minh Lớp 8

I. Mở bài:

Cốm Vòng – một thức quà thanh nhã và tinh khiết.

Một món án đượm hồn làng quê, dân dã và bình dị.

II. Thân bài:

1. Chuẩn bị và cách làm

Cốm nguyên là cái hạt non của ‘‘thóc nếp hoa vàng”.

Người làng Vòng đi ngắt lúa về và nội trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ phải bắt tay vào việc chế hóa hạt thóc ra thành cốm.

Lúc ngắt đem ở cánh đồng về, kỵ nhất là không được vò hay đập, mà phải tuốt để cho những hạt thóc vàng rơi ra.

Người ta cho rằng bí quyết của cốm Vòng là ở lúc đem đảo ở trong những nồi rang.

Tất cả cái khéo tay, cộng với những kinh nghiệm lâu đời giúp cho người dân bà làng Vòng đảo cốm trong những nồi rang vừa dẻo; lửa lúc nào cũng phải đều; nhất là củi đun phải là thứ củi gỗ cháy âm, chứ không được dùng đến củi rơm hay củi đóm.

Công việc xay, giã cũng cần phải gượng nhẹ, chu đáo, chày giã không được nặng quá, mà giã thì phải đều tay, không được chậm vì cốm sẽ nguội đi, thứ nhất là ai đảo từ dưới lên, từ trên xuống cho đều, không lỏi.

Thóc giã xong rồi, người ta sàng, trấu bay ra cùng với những hạt cốm nhẹ nhàng nhất: cốm đó là cốm đầu nia.

Người ta lấy mạ giã ra, hòa với nước, làm thành một thứ phẩm xanh màu lá cây rồi hồ cốm cho thật đều tay: cốm đương mộc mạc, nổi hẳn màu lên và duyên dáng như cô gái dậy thì bỗng tự nhiên đẹp trội lên trong một buổi sáng mùa xuân tươi tốt.

2. Trình bày

Cốm được tãi ra thật mỏng trên những mảnh lá chuối hay những cái lá sen (người ta gọi thế là lá cốm hay mẻ cốm) rồi xếp vào thúng để gánh đi bán, tinh khiết và thơm tho lạ lùng.

Đặc biệt là hàng nào cũng có một cái đòn gánh cong hai đầu; người bán hàng bước thoăn thoắt hai cái thúng đu đưa, trông thật trẻ.

Người hàng cốm xẻ từng mè cốm sang chiếc lá sen to để gói lại cho khách hàng.

Lấy lá sen gói cốm.

Lấy rơm tươi của cây lúa đem buộc gói cốm.

3. Thưởng thức

Khi ăn ta phải ăn từng chút một, lấy ngón tay nhón lấy từng chút một.

Ta vừa nhai nhỏ nhẹ, vừa ngẫm nghĩ đến tính chất thơm của cốm thoang thoảng mùi lúa đòng đòng, tính chất ngọt của cốm phiêu phiêu như khí trời trong sạch ta sẽ thấy rằng ăn một miếng cốm vào miệng là ta nuốt cả hương thơm của những cánh đồng quê của ông cha ta vào lòng.

Muốn thưởng thức được hết hương vị của cốm phải ăn cốm không, và chỉ ăn cốm không thôi.

III. Kết bài:

Cốm là những hạt ngọc của Trời.

Tùy theo khẩu vị từng người mà chế biến cốm thành những món quà khác nhau.

Đến Hà Nội, không ai không nhớ đến một thứ quà ngon nổi tiếng, một thứ quà của lúa non. Cái thứ quà vừa dân dã vừa thanh tao đó có tên gọi là “Cốm làng Vòng”. Không biết tự bao giờ, cốm làng Vòng đã quyện hoà với sắc thu Hà Nội, để trở thành nỗi nhớ của người Hà Nội lúc đi xa.

Người ta không biết đích xác nghề làm cốm làng Vòng có tự bao giờ, chỉ nghe các cụ xưa truyền lại. Vào một mùa thu cách đây cả ngàn năm, khi lúa bắt đầu uốn câu thì trời đổ mưa to, gió lớn, đê vỡ, ruộng lúa cao nhất đồng cũng chìm nghỉm. Người làng Vòng đành mò mẫm cắt những bông lúa còn non ấy đem về rang khô, ăn dần, chống đói. Không ngờ cái sản phẩm bất đắc dĩ ấy lại có hương vị riêng, rất hấp dẫn, khiến người làng Vòng thường hay làm để ăn chơi mỗi khi mùa thu đến. Cứ mỗi lần làm là một lần rút kinh nghiệm, sáng tạo thêm. Hạt cốm ngày càng xanh, càng mỏng, càng dẻo, càng thơm… Và cốm làng Vòng vượt qua khỏi luỹ tre làng, theo những gói quà, những gánh hàng rong đến với người thân, đến với người ăn chơi sành điệu, rồi trở thành đặc sản quý tiến vua nhà Lý (1009 – 1225), trở thành món ăn tao nhã nổi tiếng của người Tràng An. Vụ cốm mùa thu kéo dài tới gần ba tháng, bắt đầu từ mồng 1 tháng 7 âm lịch trở đi. Làng Vòng chia làm bốn thồn nhưng chỉ có hai thôn Vòng Hậu và Vòng Sở là làm được cốm quý. cốm Vòng được làm từ nếp cái hoa vàng. Hạt lúa nếp hoa vàng nhỏ hơn hạt nếp thường chút xíu và cũng tròn trặn hơn, khi nhấm thử một hạt, cảm giác ngọt mát lan tỏa ở đầu lưỡi như sữa. Cốm được làm từ hạt thóc non của lúa nếp hoa vàng cấy ở cánh đồng làng Vòng, bây giờ nằm giữa hai trục đường lớn của Hà Nội là đường Xuân Thủy và đường Láng – Hòa Lạc. Đặc sản cốm làng Vòng một năm có hai vụ: vụ mùa và vụ chiêm. Vụ chiêm chỉ có cốm vào tháng tư. Vì đây là trái vụ nên cốm của vụ chiêm không mấy hấp dẫn. Muốn ăn cốm ngon phải đợi đến vụ mùa, bắt đầu từ tháng bảy đến tháng mười. Khi ấy là vào mùa thu, mùa của đất trời Hà Nội.

Nói về cách thức làm cốm, tất nhiên là rất nhiều vùng quê biết làm nhưng phải thừa nhận rằng không có đâu làm được hạt cốm dẻo và thơm ngon bằng ở làng Vòng. Người làng Vòng làm cốm rất công phu. Đầu tiên họ trồng lúa, đợi đến lúc lúa khum ngọn, hãy còn sữa thì gặt đem về làm cốm. Lúa để làm cốm thì không được vò hay đập mà phải tuốt. Sau đó cho vào nồi rang. Lúc đầu rang vừa lửa, khi hạt thóc tái trắng thì bớt lửa đi. Hạt thóc rang phải được đảo liên tục, sao cho nóng đều. Rang ba mươi phút thì xem thử. Mỗi lần thử bốc lấy 5 hạt đặt lên một miếng gỗ, lấy ngón tay cái miết mạnh lên từng hạt thóc, nếu thấy “2 quằn 3 róc” – tức hai hạt chưa róc vỏ nhưng quằn lại, ba hạt róc vỏ nhưng không quằn là được, cốm rang xong phải mang giã ngay, không được để nguội. Trong quá trình giã phải có kĩ thuật, không được giã mạnh tay quá cốm sẽ nát. Khi giã phải luôn tay đảo cốm từ trên xuống, dưới lên cho đều. Tại mỗi mẻ cốm ra lò còn có cốm lá me, cốm rót, cốm mộc và cốm non thông thường, cốm lá me là những mầm nếp mỏng dính như thể hoặc hơn lá me, bé tí bay ra trong khi đang sàng cốm sau đợt giã cuối. Loại cốm này số lượng bao giờ cũng ít và hiếm, nếu có chỉ dành cho gia chủ thưởng thức mà thôi. Loại ngon thứ nhì và nhiều hơn là cốm rót. Đây là những hạt nếp non sau khi giã đã tự vón vào với nhau thành từng hạt ngô, hạt đỗ. Mỗi mẻ chỉ được khoảng 2/10 khối lượng cốm rót, thậm chí ít hơn, đặc biệt đến cuối mùa thì càng hiếm, cốm còn lại là trong cối giã là cốm đầu nia loại một, loại hai như, ta vẫn thấy bán.

Độ ngon ngọt thơm mềm và màu xanh tự nhiên của cốm phụ thuộc vào thời điểm đầu, giữa, cuối vụ. Đến cuối tháng, cốm mộc là nếp cuối mùa nên hạt to và cứng thường để rang thành cốm khô hay gia giảm, pha chế ăn tạm đợi mùa sau. Cốm mộc cũng phải có màu xanh của mạ già pha ánh vàng mới đúng nguyên chất, còn cốm đã bị hồ qua trông xanh tươi mát mắt nhưng chất lượng pha đắng chẳng còn vị cốm thật. Cứ mỗi mùa thu đến, lại thấy các bà, các chị làng Vòng quầy đôi gánh xinh xinh, giắt đầy cây lúa non đã tuốt hạt, đi dọc các phố mà rao “Ai cốm đây”, nghe thật quen thuộc.

Cốm Vòng ăn tươi thì ngon tuyệt còn mang đi xa cũng vẫn có thể đảm bảo mùi vị chất lượng trong vài ngày nếu như bọc kĩ bằng cả lá ráy và lá sen. Lá sen giữ mùi thơm cho cốm, lá ráy mát giữ cho cốm không bị khô và mất màu. Cốm được gói bằng lá sen thơm và ngon hơn khi ta gói bằng một thứ lá khác. Người ẩm thực sành điệu nhâm nhi hạt cốm làng Vòng với chén nước chè Thái Nguyên, hay thưởng thức cốm Vòng với những quả hồng trứng đỏ mọng quả chuối tiêu trứng cuốc: “Cái màu xanh tươi của cốm như ngọc thạch quý màu đỏ thắm của hồng như ngọc lựu già. Một thứ thanh đạm, một thứ ngọt sắc không gì hòa hợp bằng”. (Thạch Lam – “Hà Nội 36 phố phường”). Cũng từ cốm người ta có thể chế biến thành rất nhiều món ăn đặc sắc mà không kém phần hấp dẫn như: xôi cốm, chè cốm, chả cốm… Còn một thứ được liệt vào hạng sang và gắn liền với tên tuổi của Hà Nội: Bánh cốm phố Hàng Than. Mình bánh làm bằng cốm Vòng xào với đường và mỡ, thêm nhân bằng đậu xanh giã nhuyễn trộn với đường và ít sợi dừa trắng muốt, gói hình vuông, bọc lá chuối xanh, buộc dây lạt đỏ. Màu lạt như màu những sợi tơ hồng vấn vít xe duyên. Mâm bánh cốm dẻo ngọt mang ý nghĩa sâu xa về nguồn cội và làm biểu tượng để chúc cho đôi uyên ương luôn có một cuộc sống hạnh phúc, ngọt ngào. Mỗi khi tết đến, xuân về người Hà Nội thường không quên gửi một vài “chục” bánh cốm Hàng Than làm quà cho họ hàng, bạn bè, người thân ở khắp mọi nơi với tấm lòng thơm thảo của mình.

Cốm không chỉ là một món quà thú vị, thứ quà thanh nhã và tinh khiết ấy rất phù hợp với các việc lễ nghi nên người ta làm cốm để thờ cúng tổ tiên, lễ chùa và dùng trong đám cưới, đám hỏi làm, quà biếu tết của người Kinh Bắc. Bánh cốm được coi là bánh cưới, gửi thay cho cánh thiệp hồng báo hỷ. Vậy đấy, không phải ngẫu nhiên mà thứ quà mộc mạc, giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ Việt Nam lại cùng mùa thu Hà Nội đi vào thơ ca:

“..Hà Nội mùa thu; Mùa thu Hà Nội Mùa hoa sữa về; Thơm từng cơn gió Mùa cốm xanh về; Thơm bàn tay nhỏ Cốm sữa vỉa hè; Thơm bước chân qua,…”

Cốm là thứ quà riêng biệt của Hà Nội, của đất nước Việt Nam. Thức quà ấy mang trong hương vị tất cả sự đảm đang, cần cù và sáng tạo của người dân làm nông nghiệp.

Cứ mỗi độ thu về Hà Nội lại nồng nàn hương cốm. Từ lâu cốm là loại quà đặc trưng của Hà Nội và được đông đảo người dân thủ đô yêu thích, cốm mang trong mình hương vị riêng của Hà Nội, nên để thưởng thức cốm cùng phải thật tinh tế.

“Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội mùa hoa sữa về thơm từng cơn gis. Mùa cốm xanh về thơm bàn tay nhỏ cốm sữa vỉa hè thơm bước chân qua…”, những câu hát của cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn đã thay cho lời chào sâu lặng, đặc trưng của mùa thu Hà Nội!

Những câu hát du dương ấy như xoáy vào lòng ta nỗi nhớ bâng khuâng về mùa thu Hà Nội, về hoa sữa, về cơm nguội vàng, về cây bàng lá đỏ và không thể thiếu đó là hương cốm nồng nàn.

Cốm được làm từ lúa nếp non, ngon nhất là cốm làm từ nếp cái hoa vàng trong cả hai mùa lúa chiêm và lúa mùa. Và người làm cốm thường dùng lúa mùa vào khoảng cuối hè đầu thu (khoảng rằm tháng 7 đến hết tháng 9 âm lịch). Vào tháng 4 tháng 5 âm lịch có nơi như ở cánh đồng Gội (Dịch vọng, Từ Liêm, Hà Nội) đã lúa sớm nên đã có cốm bán gọi là cốm chiêm.

Nằm ở phía Tây Hà Nội, làng Vòng thuộc phường Dịch Vọng Hậu, quận Cầu Giấy. Từ bao đời nay cốm làng Vòng đã nức tiếng khắp cả nước. Nói đến cốm Vòng phải là thử cốm dẹt, màu xanh non làm từ nếp cái hoa vàng qua kỳ đồ sữa. Để làm nên những hạt cốm thơm ngon phải qua rất nhiều công đoạn. Khi cây lúa hoe hoe vàng, chỉ mười ngày nữa là gặt rộ cũng là lúc người làng Vòng đi chọn ngắt từng bông dài, hạt mấy về chế biến. Muốn cốm ngon thì phải cắt lúa đúng lúc. Lúc già hạt cốm không còn xanh, cứng và gãy nát. Lúa non quá, hạt cốm bết vào vỏ trấu, nhào mất ngon. Thường lúa gặt hôm nào đem rang và giã luôn hôm đó. Rang lúa sao cho vừa lửa, hạt cốm chín tới, không giòn mà tróc trấu là công đoạn khó nhất trong nghề làm cốm. Giã cốm bằng loại cối riêng, nhịp chày nhè nhẹ, nhịp nhàng, đều đều và khoan thai như vậy cốm mới mịn và dẻo.

Mang trong mình hương vị riêng của Hà Nội, nên để thưởng thức cốm cũng phải thật tinh tế. Cốm được gói vào lá sen già ấp ủ hương hoa sen tinh khiết hoặc lá khoai ráy xanh non, bóng nõn mỡ màng và buộc bằng sợi rơm vàng óng.

Các bà, các mẹ bán cốm thường ăn mặc theo lối xưa với khăn xếp, áo cánh cổ lá sen, gánh đôi thúng với một bó lạt bằng rơm nếp nhuộm mạ xanh ngắt gắn trên đầu quang gánh. Chiếc mẹt đặt úp trên một bên thúng xếp vài chiếc lá sen để gói cốm. Hình ảnh ấy dù đã trở thành quá vãng nhưng vẫn mãi là hình ảnh đẹp, thơ và trong lành của nghề cốm nói riêng và người Hà Nội nói chung.

Giờ đi qua các con phố của Hà Nội, đâu đó thoảng trong hơi gió cái hương thơm nhè nhẹ của cốm. Hà Nội vào thu thật đẹp, cảnh sắc khí trời đều khiến con người ta muốn đắm chìm, muốn yêu thương và muốn hòa mình cùng thiên nhiên huyền ảo. Thu Hà Nội với cảnh sắc vàng của lá, sắc trắng của hoa và sắc xanh non của cốm đã tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp, gieo rắc trong lòng người nhiều nỗi niềm bâng khuâng!

Hà Nội mến yêu của ta, thủ đô mến yêu của ta”. Hình ảnh thân thương của đất Thăng Long luôn ngự trị trong trái tim của mỗi con người đất Việt. Với 36 phố phường, với sen hồ Tây và xanh ngắt nước hồ Gươm, với ngọt ngào hương hoa sữa…

Không chỉ có vậy, Hà Nội còn quyến rũ lòng người bằng nét văn hóa ẩm thực gần gũi và đặc sắc.

Hà Nội từ xưa đã nổi tiếng với nhiều thứ đặc sắc: “Cốm Vòng, gạo tám Mễ Trì, Tương Bần, húng Láng còn gì ngon hơn”. Trừ tương Bần thuộc tỉnh Hưng Yên, ba thứ còn lại đều thuộc ngoại thành Hà Nội. Cốm ra đời trong hoàn cảnh ngẫu nhiên, đặc biệt. Câu ca dao xưa, không rõ tự khi nào đã nhắc đến cốm. Cả nước ai cũng biết đến cốm làng Vòng là thứ đặc sản của thủ đô. Riêng người Hà Thành coi nó như một cái gì đó quý giá, tự hào, linh thiêng…

Chuyện kể rằng: Vào một năm trời đói rét, nước ngập mênh mông. Có một gia đình nọ ở làng Vòng thuộc Dịch Vọng, Cầu Giấy gặt chạy được một tí lúa nếp non, đói quá phải rang lên mà ăn. Không ngờ lúa nếp non rang lại có vị thơm ngon đặc biệt. Nhà nọ truyền nhà kia… Cốm ra đời từ khi đó. Cốm làm bằng thứ nếp hoa vàng được ghi chép từ thời Lê Quý Đôn vào thế kỉ XIII là ngon và thơm nhất. Nếp hoa vàng làm nên món ăn thanh tao. Vào vụ Đông Xuân, không cấy được nếp hoa vàng, chỉ cấy được nếp mới, ít thơm hơn. Nhưng với đôi bàn tay khéo léo thì cốm vẫn ngon, vẫn thắm đượm lòng người.

Nghề làm cốm làng Vòng lan truyền tới các làng lân cận Mai Dịch, Mễ Trì… và trở thành đặc sản của 36 phố phường. Hằng năm, vào dịp Tết Trung Thu, tiết trời sẹ lạnh, đã có cốm. Trên trời, trăng thu sáng trong, ôm trọn cánh đồng lúa đang dần trĩu bông đón chờ mùa gặt tháng Mười. Chẳng biết tự bao giờ đã có tên “cốm”, về cách phát âm, “cốm” với “cơm”, hay là một thứ cơm không nấu và rang lên?

Cốm được đem bán rộng rãi khắp phố phường. Các bà, các chị gánh cốm bằng chiếc đòn gánh đầu cong vút, với đôi quang nhỏ, cái thúng, cái mẹt xinh xinh có xập lá sen, hồn nhiên rao: “Ai muốn cốm hoa vàng… “

Hương cốm và hương sen hòa quyện vào nhau. Người xa quê cầm gói cốm bọc trong lá sen, được buộc bằng mấy cọng rơm nếp non còn xanh, cảm thấy lòng lâng lâng khó tả. Đó là cảm giác nhớ về quê hương, đứng trước đồng lúa chín và đầm sen dịu mát. Làng quê chợt hiện về, có mẹ già còng lưng vất vả, có ruộng đồng xanh ngát một màu.

Advertisement

Khi mở gói cốm ra, giữa nền lá sen xanh thắm, những hạt cốm xanh tỏa ra mùi thơm ngọt ngào của mùa màng. Đặt mấy hạt cốm lên lòng bàn tay, thấy nhẹ tênh.

Tôi nhớ ngày còn bé, mẹ tôi hay làm chè cốm mỗi khi có dịp. Anh em tôi thường hí hửng xung quanh mẹ chờ nồi cốm chín. Chè mẹ nấu thì thật tuyệt.

Cốm ăn với chuối tiêu trứng cuốc vào mùa thu thì khỏi chê. Đôi khi, dạo quanh phố phường trong tiết thu se lạnh, bất chợt bắt gặp đôi ba cô bé, cậu bé ngồi quay quần bên gánh cốm ven đường, cảm thấy tâm hồn lắng đọng. Hồn Hà Nội chợt ngập tràn trong tôi.

Giờ đây, cốm được chế biến thành nhiều món như: cốm xào, chè cốm, bánh cốm, chả cốm, kem cốm, kẹo cốm… Cốm nhẹ nhàng góp mặt vào văn hóa ẩm thực Việt Nam. Cốm du lịch khắp đất nước. Thậm chí vượt biên giới ra các nước khác.

Những câu hát du dương ấy như xoáy vào lòng ta nỗi nhớ bâng khuâng về mùa thu Hà Nội, về hoa sữa, về cơm nguội vàng, về cây bàng lá đỏ và không thể thiếu đó là hương cốm nồng nàn.

Cốm được làm từ lúa nếp non, ngon nhất là cốm làm từ nếp cái hoa vàng trong cả hai mùa lúa chiêm và lúa mùa. Và người làm cốm thường dùng lúa mùa vào khoảng cuối hè đầu thu (khoảng rằm tháng 7 đến hết tháng 9 âm lịch). Vào tháng 4 tháng 5 âm lịch có nơi như ở cánh đồng Gội (Dịch vọng, Từ Liêm, Hà Nội) đã lúa sớm nên đã có cốm bán gọi là cốm chiêm.

Nằm ở phía Tây Hà Nội, làng Vòng thuộc phường Dịch Vọng Hậu. quận Cầu Giấy. Từ bao đời nay cốm làng Vòng đã nức tiếng khắp cả nước. Nói đến cốm Vòng phải là thử cốm dẹt, màu xanh non làm từ nếp cái hoa vàng qua kỳ đồ sữa. Để làm nên những hạt cốm thơm ngon phải qua rất nhiều công đoạn. Khi cây lúa hoe hoe vàng, chỉ mười ngày nữa là gặt rộ cũng là lúc người làng Vòng đi chọn ngắt từng bông dài, hạt mấy về chế biến. Muốn cốm ngon thì phải cắt lúa đúng lúc. Lúc già hạt cốm không còn xanh, cứng và gãy nát. Lúa non quá, hạt cốm bết vào vỏ trấu, nhào mất ngon. Thường lúa gặt hôm nào đem rang và giã luôn hôm đó. Rang lúa sao cho vừa lửa, hạt cốm chín tới, không giòn mà tróc trấu là công đoạn khó nhất trong nghề làm cốm. Giã cốm bằng loại cối riêng, nhịp chày nhè nhẹ, nhịp nhàng, đều đều và khoan thai như vậy cốm mới mịn và dẻo.

Mang trong mình hương vị riêng của Hà Nội, nên để thưởng thức cốm cũng phải thật tinh tế. Cốm được gói vào lá sen già ấp ủ hương hoa sen tinh khiết hoặc lá khoai ráy xanh non, bóng nõn mỡ màng và buộc bằng sợi rơm vàng óng.

Các bà, các mẹ bán cốm thường ăn mặc theo lối xưa với khăn xếp, áo cánh cổ lá sen, gánh đôi thúng với một bó lạt bằng rơm nếp nhuộm mạ xanh ngắt gắn trên đầu quang gánh. Chiếc mẹt đặt úp trên một bên thúng xếp vài chiếc lá sen để gói cốm. Hình ảnh ấy dù đã trở thành quá vãng nhưng vẫn mãi là hình ảnh đẹp, thơ và trong lành của nghề cốm nói riêng và người Hà Nội nói chung.

Giờ đi qua các con phố của Hà Nội, đâu đó thoảng trong hơi gió cái hương thơm nhè nhẹ của cốm. Hà Nội vào thu thật đẹp, cảnh sắc khí trời đều khiến con người ta muốn đắm chìm, muốn yêu thương và muốn hòa mình cùng thiên nhiên huyền ảo. Thu Hà Nội với cảnh sắc vàng của lá, sắc trắng của hoa và sắc xanh non của cốm đã tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp, gieo rắc trong lòng người nhiều nỗi niềm bâng khuâng!

Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Nhà Văn Nam Cao Dàn Ý &Amp; 7 Bài Văn Mẫu Lớp 8 Hay Nhất

TOP 7 bài Thuyết minh về nhà văn Nam Cao SIÊU HAY, kèm theo dàn ý chi tiết. Qua đó, giúp các em học sinh lớp 8 hiểu rõ hơn về tiểu sử, phong cách nghệ thuật, cùng những tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Nam Cao.

1. Mở bài

Giới thiệu khái quát về tác giả Nam Cao.

2. Thân bài

* Cuộc đời nhà văn Nam Cao:

Nam Cao (1917 – 1951), tên khai sinh Trần Hữu Tri.

Quê hương: làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân, tỉnh Hà Nam.

Học xong bậc thành chung vào Sài Gòn kiếm sống, sau 3 năm lại trở về quê.

Dạy học ở ngoại ô Hà Nội, chật vật xoay sở bằng nghề viết văn, làm gia sư.

Năm 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc.

1946 là phóng viên đoàn Nam tiến vào Nam Trung Bộ

1947 – 1950 lên Việt Bắc tham gia chiến dịch Biên Giới. 1951 bị giặc phục kích sát hại.

* Con người của tác giả Nam Cao:

Bề ngoài lạnh lùng, vụng về, ít nói nhưng nội tâm phong phú.

Có tấm lòng đôn hậu, chan chứa yêu thương.

* Sự nghiệp sáng tác của tác giả Nam Cao:

Quan điểm nghệ thuật tiến bộ, tự giác, hệ thống và nhất quán.

Tư tưởng nhân đạo là yêu cầu tất yếu, đòi hỏi cao sự tìm tòi sáng tạo, nhà văn phải có lương tâm.

Các đề tài chính: người trí thức nghèo, người nông dân nghèo và văn xuôi kháng chiến.

Phong cách nghệ thuật độc đáo, quan tâm tới đời sống tinh thần con người.

3. Kết bài

Khẳng định những giá trị và đóng góp to lớn mà tác giả Nam Cao đóng góp cho nền văn học nước nhà.

Nhà văn Nam Cao sinh năm 1915, tên khai sinh là Trần Hữu Tri, quê ở làng Đại Hoàng (nay thuộc xã Hoà Hậu, huyện Lí Nhân, tỉnh Hà Nam).

Khi còn nhỏ, Nam Cao ở làng và thành phố Nam Định. Từ 1936, bắt đầu viết văn in trên các báo: Tiểu thuyết thứ bảy, ích hữu… Năm 1938, dạy học tư ở Hà Nội và biết báo. Năm 1941, ông dạy học tư ở Thái Bình. Năm 1942, ông trở về quê, tiếp tục viết văn. Năm 1943, Nam Cao gia nhập Hội Văn hoá cứu quốc. Cách mạng Tháng Tám 1945, ông tham gia cướp chính quyền ở phủ Lí Nhân và được cử làm chủ tịch xã. Năm 1946, ông ra Hà Nội, hoạt động trong Hội Văn hoá cứu quốc và là thư kí toà soạn tạp chí Tiên phong của Hội. Cùng năm đó, ông tham gia đoàn quân Nam tiến với tư cách phóng viên, hoạt động ở Nam Bộ. Sau đó lại trở về nhận công tác ở Ti Văn hoá Nam Hà. Mùa thu 1947, Nam Cao lên Việt Bắc, làm phóng viên báo Cứu quốc và là thư kí toà soạn báo Cứu quốc Việt Bắc. Năm 1950, ông nhận công tác ở tạp chí Văn nghệ (thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam) và là Uỷ viên Tiểu ban Văn nghệ Trung ương. Năm 1951, ông tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp ở khu III, bị địch phục kích và hi sinh.

Những sáng tác của Nam Cao trước cách mạng tập trung vào hai đề tài chính: Cuộc sống của những người tiểu tư sản trí thức nghèo và cuộc sống của người nông dân. Dù viết về đề tài nào thì điều mà Nam Cao quan tâm trước tiên là tình trạng người lao động bị tha hóa biến chất vì bát cơm manh áo.

Ở đề tài tiểu tư sản trí thức nghèo, đáng chú ý nhất là các tác phẩm “Trăng sáng”, “Đời thừa”, “Mua nhà “, “Truyện tình”, “Quên điều độ”, “Nước mắt”, “Những truyện không muốn viết”, … đặc biệt là tiểu thuyết “Sống mòn” (1944). Trong những tác phẩm này, Nam Cao đã miêu tả hết sức chân thực và cảm động tình trạng nghèo khổ, sống dở, chết dở của người trí thức nghèo. Qua đó, tác giả còn đặc biệt đi sâu vào những tấn bi kịch tâm hồn của họ. Đó là tấn bi kịch dai dẳng, thầm lặng mà đau đớn của những tri thức có ý thức sâu sắc về giá trị sự sống và nhân phẩm, có hoài bão lớn về một sự nghiệp tinh thần cao cả, nhưng lại bị gánh nặng cơm áo, và cuộc sống tàn nhẫn đầy rẫy bất công vô lý đầy vào cảnh “chết mòn” về tinh thần và sống cuộc “Đời thừa”. Phê phán cái xã hội phi nhân đạo đã bóp nghẹt sự sống và tàn phá tâm hồn con người, Nam Cao đồng thời cũng thể hiện niềm khao khát tới một cuộc sống đẹp đẽ xứng đáng với con người.

Về đề tài người nông dân: là nhà văn sinh ra và lớn lên nơi chốn bùn lầy nước đọng, Nam Cao hiểu biết khá sâu sắc cuộc sống của những con người thấp cổ bé họng này. Ông đã để lại chừng hai chục truyện ngắn có giá trị về tài nông dân, đáng chú ý là “Lão Hạc”, “Chí phèo”, “Trẻ con không được ăn thịt chó”, “Mua danh”, “Tư cách mõ”, “Một bữa no”, “Một đám cưới”, “Dì Hảo”, “Điếu văn”, “Lang Rận”, “Nửa đêm”, … Qua những tác phẩm trên, Nam Cao không chỉ mô tả một cách thấm thìa và cảm động những số phận tăm tối, hẩm hiu, bị ức hiếp, bị tha hoá, lăng nhục mà còn phát hiện và khẳng định phẩm chất lương thiện đẹp đẽ của họ ẩn giấu đằng sau những tâm hồn tưởng như tăm tối và cằn cỗi đó. Chiều sâu mới mẻ của ngòi bút hiện thực và nhân đạo của Nam Cao chính là ở đấy.

Cũng như các nhà văn tiểu tư sản khác chưa nắm được chân lý cách mạng, Nam Cao đã không thấy được khả năng đổi đời của người nông dân và triển vọng của xã hội. Song trong truyện ngắn “Điếu văn” (1944), Nam Cao đã viết những dòng dự báo đầy hào hứng “Cuộc đời không thể cứ mù mịt mãi thế này đâu. Tương lai phải sáng sủa hơn. Một rạng đông đã báo rồi!”. Đó là lời chào đón chân thành tha thiết tia sáng rạng đông đang báo hiệu ở chân trời lúc bấy giờ.

Sau cách mạng tháng Tám: Nam Cao là một trong số ít nhà văn đã đến với cách mạng ngay từ đầu. Năm 1948, Ông được kết nạp vào Đảng, ông tham gia Hội văn hoá cứu quốc, tích cực hoạt động cách mạng, kháng chiến, làm Thư ký Tạp chí “Tiền Phong”. Năm 1947 làm thư ký tòa soạn báo “Cứu quốc Việt Bắc”. Năm 1950 nhận công tác ở tạp chí “Văn nghệ”.

Nam Cao được xem là một trong những cây bút tiêu biểu nhất trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Thời kỳ này, ông viết được nhiều tác phẩm có giá trị như: Nhật ký “Ở rừng” (1948) “Chuyện biên giới” (1950), đặc biệt là truyện ngắn “Đôi mắt” (1948) ra đời giữa lúc giới văn nghệ đang vất vả “nhận đường” là một thành công xuất sắc của văn nghệ kháng chiến lúc đó. Thông qua việc phê phán một nghệ sĩ có “đôi mắt” lệch lạc trong việc nhìn người, nhìn đời, có lối sống trưởng giả, kênh kiệu, nhởn nhơ, lạc lõng giữa cuộc kháng chiến sôi nổi của toàn dân tộc và khẳng định một người nghệ sĩ mới dứt khoát từ bỏ con người cũ, lối sống cũ, và quyết tâm “cách mạng hóa tư tưởng, quần chúng hóa sinh hoạt”, trở thành người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá, “Đôi mắt” xứng đáng là một tuyên ngôn nghệ thuật của tầng lớp văn nghệ tiểu tư sản đi theo kháng chiến.

Nam Cao có biệt tài trong việc diễn tả phân tích tâm lý con người. Ngôn ngữ của Nam Cao sống động uyển chuyển, tinh tế rất gần với lời ăn, tiếng nói của quần chúng. Ghi nhận những đóng góp của Nam Cao đối với nền văn học nước nhà, Nhà nước đã tặng thưởng ông giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học – nghệ 1 thuật (đợt I – năm 1996). Nam Cao xứng đáng là lá cờ đầu của truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỉ XX.

Nam Cao (1915 – 1951) là một trong số những nhà văn lớn nhất của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Sáng tác của ông đã vượt qua những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng ngời sáng. Thời gian càng lùi xa, những tác phẩm của ông càng bộc lộ ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo.

Nam Cao là nhà văn lớn nhất của trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945. Trong số các nhà văn hiện thực, ông là cây bút có ý thức sâu sắc nhất về quan điểm nghệ thuật của mình. Ông phê phán khá toàn diện và triệt để tính chất thoát ly, tiêu cực của văn chương lãng mạn đương thời, coi đó là thứ “ánh trăng lừa dối”. Đồng thời yêu cầu nghệ thuật chân chính phải trở về với đời sống, phải nhìn thẳng vào sự thật, nói lên được nỗi thống khổ của hàng triệu nhân dân lao động lầm than (Giăng sáng).

Nam Cao là nhà văn của chủ nghĩa hiện thực tâm lý. Điều đó có quan hệ mật thiết tới quan niệm về con người của ông. Nam Cao từng viết trong “Sống mòn”: “Sống tức là cảm giác và tư tưởng. Sống cũng là hành động nữa, nhưng hành động chỉ là phần phụ: có cảm giác, có tư tưởng mới sinh ra hành động”. Một quan niệm về con người như thế đã chi phối thủ pháp chủ nghĩa hiện thực tâm lý của Nam Cao. Sự chú ý đặc biệt tới thế giới bên trong của con người đã thường xuyên chế ước hứng thú nghệ thuật ngày càng tăng của nhà văn đối với tính chất nhiều dự định của cá tính con người, động cơ nội tại của hành vi nhân vật và quan hệ phức tạp của nó với hiện thực xung quanh.

Đối với Nam Cao, cái quan trọng hơn cả trong nhiệm vụ phản ánh chân thật cuộc sống là cái chân thật của tư tưởng, của nội tâm nhân vật. Xét tới cùng, cái quan trọng nhất trong tác phẩm không phải là bản thân sự kiện, biến cố tự thân mà là con người trước sự kiện, biến cố. Vì vậy, trong sáng tác của Nam Cao, hứng thú của những chi tiết tâm lý thường thay thế cho hứng thú của chính bản thân các sự kiện, biến cố. Như vậy, nguyên tắc các sự kiện, biến cố, tình tiết chỉ giữ vai trò “khiêu khích” các nhân vật, để cho nhân vật bộc lộ những nét tâm lý, tính cách của mình. Cho nên, trong “Mua nhà”, Nam Cao không tập trung miêu tả sự việc mua được cái nhà gỗ rẻ mà tập trung xoáy sâu vào những suy nghĩ, dằn vặt, những ân hận, dày vò của nhân vật người kể chuyện về tình trạng “hạnh phúc chỉ là một cái chăn quá hẹp. Người này co thì người kia bị hở”. “Đời thừa” cũng không hướng vào việc miêu tả nỗi khổ áo cơm mà tập trung thể hiện phản ứng tâm lý của con người trước gánh nặng áo cơm làm mai một tài năng và xói mòn nhân cách. Cho nên, trước khi bán một con chó, lão Hạc phải trải qua biết bao băn khoăn, day dứt, dằn vặt và khi buộc phải bán nó thì lão vô cùng ân hận, tột cùng đau đớn, tuổi già mà khóc hu hu như con nít. Chí Phèo – con quỷ dữ của làng Vũ Đại đã ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, đập đầu rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say, như là con vật sống trong vô thức, vậy mà sau lần gặp Thị Nở ở bờ sông, cứ “vẩn vơ nghĩ mãi”. Còn thị Nở, người đàn bà vô tâm có cái tật đột nhiên muốn ngủ không sao chữa được, về nhà lên giường muốn ngủ hẳn hoi mà vẫn không sao ngủ nổi, thì cứ “lăn ra lăn vào”. Nam Cao chẳng những miêu tả sinh động những chi tiết, những biểu hiện tâm lý nhỏ nhặt nhất mà còn theo dõi, phân tích quá trình tích tụ của chúng dẫn tới sự nảy sinh những phẩm chất mới trong tâm hồn con người. Không chỉ dừng lại ở những khoảnh khắc, Nam Cao đã miêu tả thành công những quá trình tâm lý của nhân vật. Ngòi bút của ông tỏ ra có biệt tài trong khi miêu tả những trạng thái tâm lý phức tạp, những hiện tượng lưỡng tính dở say, dở tỉnh, dở khóc, dở cười, mấp mé ranh giới giữa thiện với ác, giữa hiền với dữ, giữa con người với con vật… Nam Cao đã khắc phục được tính phiến diện, đơn giản trong việc miêu tả tâm lí nhân vật. Qua ngòi bút của ông, tâm lý con người được thể hiện một cách phong phú đa dạng với nhiều sắc thái tinh vi.

Trong sáng tác của Nam Cao, tâm hồn con người là sân khấu bi kịch và bi hài kịch của những xung đột tư tưởng, ý tưởng. Thi pháp chủ nghĩa hiện thực tâm lý của Nam Cao thích ứng với việc nghiên cứu, phân tích và khám phá bằng nghệ thuật tâm lý của nhân vật hơn là việc phân tích và miêu tả những biến cố, xung đột đích thực của chính bản thân đời sống xã hội. Đối với Nam Cao, sự phân tích tâm lý hầu như là điều kiện cơ bản nhất của việc thể hiện con người theo phương pháp hiện thực có chiều sâu của ông. Nam Cao đã lấy thế giới nội tâm nhân vật làm đối tượng chính của sự miêu tả. Ông đã hướng ngòi bút của mình vào việc khám phá con người trong con người miêu tả và phân tích mọi chiều sâu, mọi chuyển biến trong thế giới tâm hồn của nhân vật. Chính vì vậy mà đối với ông, việc miêu tả ngoại hình chỉ có ý nghĩa khi nó nhằm thể hiện và làm nổi rõ bộ mặt tinh thần của nhân vật. Những cảnh thiên nhiên cũng chỉ có lý do tồn tại khi nó gắn liền với tâm trạng của con người. Giữa những bức tranh phong cảnh thoáng nhìn tưởng chỉ thuần túy những cảnh vật thiên nhiên, nhà văn đã khéo léo treo lên những mảnh tâm hồn của nhân vật.

Nam Cao mong muốn khai thác những vấn đề của cuộc sống không phải ở bề rộng mà là ở bề sâu. Thoát khỏi cách nói chút ít về tất cả, ông đã tập trung bút lực vào việc miêu tả nội tâm của nhân vật. Nhà hiện thực chủ nghĩa Nam Cao đã mở rộng việc phản ánh hiện thực bằng cách khai thác sâu sắc thế giới tâm hồn của con người. Qua ngòi bút ông, thế giới bên trong của con người, kể cả những “con người bé nhỏ”, thậm chí cả những kẻ khốn khổ tủi nhục nhất như Chí Phèo và Thị Nở cũng là cả một vũ trụ bao la! Đối với Nam Cao, việc phân tích tâm lí nhân vật không tách rời việc phân tích cuộc sống xã hội nói chung. Thông qua việc miêu tả, phân tích tâm lý để thể hiện những mâu thuẫn, xung đột xã hội, Nam Cao đã mở ra một khuynh hướng phân tích mới cho phương pháp hiện thực chủ nghĩa trong văn học Việt Nam. Có thể nói, cảm hứng phân tích phê phán thấm nhuần trong toàn bộ sáng tác của Nam Cao. Nó là một đặc điểm nổi bật, trở thành “linh hồn”, “cốt tuỷ” chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao.

Cái gốc, nền tảng vững chắc của chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao là chủ nghĩa nhân đạo. Trong truyện ngắn “Đời thừa”, Nam Cao khẳng định: “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả đời người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn”. Như vậy, trong quan niệm của Nam Cao, chủ nghĩa nhân đạo được đặt ra, như một yêu cầu tất yếu đối với những tác phẩm “thật có giá trị”.

Trong mỗi trang văn của Nam Cao đều bộc lộ tấm lòng của một con người đau đời và thương đời da diết. Nam Cao yêu thương những con người bị cuộc đời đày đọa. Xã hội cũ đã làm cho ông đau xót khi mà đa số những nhân vật của ông bị đẩy vào cảnh khốn cùng, không đạt được gì trong cuộc đời, không có đủ điều kiện để phát huy những khả năng tiềm tàng ưu việt của mình.

Ông là nhà văn của những người nông dân nghèo khổ và bất hạnh, nhà văn của những người khốn khổ, tủi nhục nhất trong xã hội thực dân phong kiến. Trái tim nhân đạo và cái nhìn sắc sảo của ông đã thấu hiểu những hoàn cảnh thiếu nhân tính làm cho con người bị tha hóa. Viết về những con người dưới đáy của xã hội, Nam Cao đã bộc lộ sự cảm thông lạ lùng của một trái tim nhân đạo lớn. Thế giới, cuộc đời con người, mối quan hệ giữa những con người được nhìn nhận bằng những con mắt của chính họ. Nhà văn, trong những đánh giá và nhận xét, đã xuất phát từ lợi ích và yêu cầu của chính những con người cùng khổ nhất, không có quyền, bị xã hội áp bức, chà đạp xuống tận bùn đen. Ông đã bảo vệ, bênh vực, minh oan, “chiêu tuyết” cho những con người thấp cổ bé họng, bị cuộc đời xua đuổi, hắt hủi, khinh bỉ một cách bất công. Với trái tim đầy yêu thương, ông tin rằng trong tâm hồn của những người không còn được là người, những con người bề ngoài được miêu tả như những con vật vẫn còn nhân tính, vẫn còn những khát khao nhân bản. Ông nhận ra đằng sau những bộ mặt xấu xí đến “ma chê quỷ hờn” của thị Nở (Chí Phèo) của mụ Lợi (Lang Rận) của Nhi (Nửa đêm)… vẫn là một con người, một tâm tính người thật sự, cũng khao khát yêu thương. Và khi được ngọn lửa tình yêu sưởi ấm, những tâm hồn tưởng chừng đã cằn cỗi, khô héo ấy cũng ánh lên những vẻ đẹp với những hồi hộp, vui mừng sung sướng, cũng lườm, nguýt, âu yếm, cũng e lệ, làm duyên theo kiểu cách riêng của họ. Thậm chí, trong đáy sâu tâm hồn đen tối của một kẻ cục súc, u mê như Chí Phèo – một kẻ đã bị cuộc đời tàn phá, huỷ hoại từ nhân hình đến nhân tính – nhà văn vẫn nhìn thấy những rung động thật sự của tình yêu của niềm khao khát muốn trở lại làm người lương thiện. Có thể nói, cùng với việc lên án gay gắt những thành kiến, định kiến tồi tệ, những sự nhục mạ danh dự và phẩm giá con người, chính việc phát hiện ra cái phần con người còn sót lại trong một kẻ lưu manh trân trọng những khao khát nhân bản và miêu tả những rung động trong sáng của những tâm hồn tưởng chừng đã bị cuộc đời làm cho cằn cỗi, u mê đã làm cho Nam Cao trở thành một trong số những nhà văn nhân đạo lớn nhất trong nền văn học hiện đại Việt Nam.

Nam Cao là nhà văn của những người trí thức nghèo, của những kiếp “Sống mòn” có hoài bão, có tâm huyết, tài năng, muốn vươn lên cao nhưng lại bị chuyện áo cơm ghì sát đất. Nếu như mỗi tác phẩm viết về đề tài người nông dân của Nam Cao đều là sự trả ơn, gửi gắm ân tình với người nghèo khổ thì mỗi trang viết về đề tài người trí thức đều chứa đựng tâm sự, nỗi đau và niềm khát khao cháy bỏng của chính nhà văn.

Ông cũng giống với Xuân Diệu, Thạch Lam ở chỗ đã thức tỉnh sâu sắc về ý thức cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa về ý thức cá nhân trên đời. Họ hết sức nhạy cảm với những kiếp sống nhỏ bé, cơ cực, sống mòn mỏi, lắt lay, quẩn quanh, bế tắc. Những con người không hề biết sống làm vui, không bao giờ biết đến ánh sáng và hạnh phúc. Đến trong ước mơ mà vẫn cứ quẩn quanh không biết mơ ước gì hơn một chuyến tàu đêm vụt đi qua cái phố huyện nghèo (Thạch Lam, Hai đứa trẻ). Xuân Diệu cũng không sao chịu nổi “nỗi đìu hiu của cái ao đời bằng phẳng” (Tỏa nhị kiều) và khao khát: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối/ Còn hơn le lói suốt trăm năm” (Giục giã). Nhưng có lẽ, không ai trong số họ lại đau đớn khôn nguôi, phẫn uất cao độ như Nam Cao trước tình trạng con người không sao thoát khỏi tình trạng sống mòn. Trước cách mạng, không có nhà văn nào có cách nhìn sâu sắc, có tầm triết lý, tổng hợp khái quát cao về tình trạng chết mòn của con người như nhà văn lớn Nam Cao. Mỗi nhân vật của ông là một kiểu đời thừa, một lối sống mòn, một cách chết mòn. Một cuộc sống vô lý, vô ích, vô nghĩa, “chết mà chưa làm gì cả”, “chết trong lúc sống”, “chết mà chưa sống”. Nam Cao không chấp nhận sự sống của con người chỉ là sự tồn tại sinh học. Ông coi đó không phải là cuộc sống xứng đáng của con người: “Có thú vị gì cái lối sống co quắp vào mình, cái lối sống quá ư loài vật, chẳng còn biết một việc gì ngoài cái việc kiếm thức ăn đổ vào dạ dày?”. Cuộc sống xứng đáng với danh hiệu cao quý của con người, theo quan niệm của Nam Cao, là phải có đời sống tinh thần cao đẹp, sống với đầy đủ giá trị của sự sống. Xuất phát từ tư tưởng cao sâu đó, Nam Cao đã đồng cảm sâu sắc và đau đớn vô hạn trước bi kịch của những con người muốn sống có ý nghĩa bằng sự cống hiến của mình mà rốt cuộc phải sống như một kẻ vô ích, một “người thừa”. “Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khao khát làm một cái gì mà nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?” (Đời thừa).

Qua những nhân vật trí thức tâm huyết của mình, những Điền, những Hộ, những Thứ… Nam Cao thể hiện niềm khao khát, một lẽ sống lớn, khao khát một cuộc sống sâu sắc mãnh liệt, có ích và có ý nghĩa. Hộ trong “Đời thừa” hằng tâm niệm: “Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thoả mãn lòng ích kỷ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai của mình” và mơ ước viết được “một tác phẩm thực sự có giá trị làm cho người gần người hơn”. Thứ trong “Sống mòn” đã từng “thích làm một việc gì có ảnh hưởng đến xã hội ngay” và mong muốn đem “những sự đổi thay lớn lao đến cho xứ sở mình”. Hơn một lần Thứ mơ ước: “Mình cũng là một vĩ nhân, một anh hùng, vượt lên trên sự tầm thường để chỉ nghĩ đến một cái gì vĩ đại thôi. Y nghĩ đến những phương kế để xoay ngược lại, đồng thời xếp đặt cho người với người ổn thoả hơn”. Những con người mang hoài bão lớn ấy khi chạm trán với cuộc đời đều nếm trải đắng cay, đau đớn, đều lâm vào tình trạng “sống mòn”. Nhưng dẫu bị “áo cơm ghì sát đất”, tuy “sống mòn” nhưng họ chưa hoàn toàn cạn kiệt hết niềm tin, niềm hi vọng, vẫn khao khát được sống, được cống hiến, được phát triển; vẫn khao khát mỗi cá nhân được phát triển “đến tận độ” để góp vào “công việc tiến bộ chung” của loài người. Cao cả và đẹp đẽ biết bao lý tưởng nhân văn của Nam Cao được gửi gắm qua những dòng suy ngẫm của nhân vật Thứ về sự sống: “Thứ vẫn không thể nào chịu được rằng sống chỉ là làm thế nào cho mình và vợ con mình có cơm ăn, áo mặc thôi. Sống là để làm một cái gì cao đẹp hơn nhiều, cao quý hơn nhiều. Mỗi người sống phải làm thế nào cho phát triển đến tận độ những khả năng của loài người chứa đựng ở trong mình. Phải gom góp sức lực của mình vào công việc tiến bộ chung. Mỗi người chết đi, phải để lại một chút gì cho nhân loại”.

Có thể nói, tư tưởng nhân đạo thấm nhuần trong sáng tác của Nam Cao. Ông là nhà văn đồng tình với khát vọng sống lương thiện và khát vọng được phát huy đến tận độ tài năng của con người. Tư tưởng nhân đạo mới mẻ, phong phú và sâu sắc đó cho thấy nhà văn không chỉ dừng lại ở chỗ tố cáo những thế lực tàn bạo chà đạp quyền sống của con người mà còn đòi hỏi xã hội tạo những điều kiện để con người được sống một cuộc sống thực sự có ý nghĩa.

Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc giai đoạn 1930 – 1945, là một cây bút viết về người nông dân hết sức chân thực, có đóng góp nhiều cho sự thành công của dòng văn học hiện thực Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.

Tên khai sinh của ông là Trần Hữu Tri, sinh năm 1917, mất năm 1951. Quê ở làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Nam Cao là cây bút luôn suy nghĩ, tìm tòi để “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”. Vì thế, đề tài của ông tuy không mới nhưng tác phẩm vẫn có những đặc sắc tâm lý. Tác phẩm của Nam Cao chủ yếu xoay quanh hai đề tài chính: người nông dân và người trí thức tiểu tư sản nghèo, ở đề tài người trí thức tiểu tư sản có những tác phẩm: “Trăng sáng, Đời thừa, Mua nhà, Nước mắt…” và những truyện đáng chú ý khi ông viết về người nông dân như: “Lão Hạc, Chí Phèo, Một bữa no, Lang Rận…”. Có thể nói dù viết về trí thức nghèo hay về người nông dân cùng khổ thì Nam Cao vẫn luôn day dứt, đau đớn trước tình trạng con người bị xói mòn về nhân phẩm, thậm chí huỷ diệt cả nhân tính trong cái xã hội phi nhân đạo đương thời. Nam Cao là người có ý thức trách nhiệm nhất về ngòi bút của mình, suốt cuộc đời lao động văn học, nhà văn luôn suy nghĩ về sống và viết.

Trong nền văn xuôi hiện đại nước ta, Nam Cao là nhà văn có tài năng xuất sắc và một phong cách độc đáo. Ngòi bút của Nam Cao vừa tỉnh táo, sắc lạnh, vừa nặng trĩu suy nghĩ và đằm thắm yêu thương. Văn Nam Cao hết sức chân thực, ông coi sự thực là trên hết, không gì ngăn được nhà văn đến với sự thực, vừa thấm đượm ý vị triết lí và trữ tình. Ông có sở trường diễn tả, phân tích tâm lý con người. Ngôn ngữ trong tác phẩm của ông sống động, uyển chuyển, tinh tế, rất gần với lời ăn tiếng nói của quần chúng. Với một tài năng lớn và giàu sức sáng tạo, Nam Cao đã góp phần quan trọng vào việc cách tân nền văn xuôi Việt Nam theo hướng hiện đại hoá.

Tác phẩm Nam Cao để lại chủ yếu là truyện ngắn, trong số những truyện ngắn viết về người nông dân, thì “Lão Hạc” là một truyện ngắn xuất sắc và tiêu biểu.

Truyện ngắn “Lão Hạc” được đăng báo lần đầu năm 1943. Truyện kể về nhân vật chính – lão Hạc, một lão nông dân nghèo khổ, có phẩm chất trong sạch, vợ lão Hạc mất sớm, để lại lão và cậu con trai, trong nhà tài sản duy nhất của hai cha con lão là một mảnh vườn và “cậu vàng” – con chó do con trai lão mua. Do không đủ tiền cưới vợ, con trai lão chán nản mà làm đơn xin đi mộ phu đồn điền cao su, để lão ở nhà một mình với cậu vàng. Lão Hạc hết sức thương con, lão chăm vườn, làm ăn dành dụm để khi con trai lão về thì cưới vợ cho nó. Thế nhưng, sau một trận ốm nặng, bao nhiêu tiền dành dụm cũng hết, sức khoẻ lão ngày một yếu đi, vườn không có gì để bán, lão Hạc trở nên đói kém hơn, phải lo từng bữa ăn. Lão ăn năn day dứt khi quyết định bán cậu vàng – người bạn thân thiết của lão. Lão gửi số tiền và mảnh vườn cho ông giáo và xin bả chó của Binh Tư để kết thúc cuộc sống túng quẫn của mình. Lão chết một cách đau đớn, nhưng cái chết làm sáng ngời phẩm chất trong sạch của lão Hạc.

Thông qua số phận và cái chết của lão Hạc, Nam Cao đã thể hiện một thái độ trân trọng và cái nhìn nhân đạo đối với lão Hạc nói riêng và người nông dân Việt Nam nói chung – những con người nghèo khổ nhưng sống trong sạch, thà chết chứ không chịu mang tiếng nhục, làm những điều trái với lương tâm cao cả của mình. Nam Cao cũng đã nêu lên một triết lý nhân sinh rằng: Con người chỉ xứng đáng với danh nghĩa con người khi biết trân trọng và chia sẻ, nâng niu những điều đáng quý, đáng thương ở con người. Đồng cảm với những số phận đáng thương, Nam Cao đã lên tiếng thông qua tác phẩm là tiếng nói lên án xã hội đương thời thối nát, bất công, không cho những con người có nhân cách cao đẹp như lão được sống. Tác phẩm “Lão Hạc” cũng mang một giá trị nghệ thuật sâu sắc, thể hiện được phong cách độc đáo của nhà văn Nam Cao.

Tóm lại, nhà văn Nam Cao đã có những đóng góp không nhỏ trong nền văn học Việt Nam. Các tác phẩm của ông đã để lại nhiều giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

Nam Cao tên khai sinh là Trần Hữu Tri. Ông sinh năm 1917, trong một gia đình nông dân tại làng Đại Hoàng, thuộc tống Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay thuộc xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Làng Đại Hoàng nằm trong vùng đồng chiêm trũng, nông dân quanh năm nghèo đói, lại bị bọn cường hào ức hiếp, đục khoét tàn tệ.

Nam Cao là con người duy nhất trong gia đình khá đông con – được ăn học tử tế. Học xong bậc Thành chung, Nam Cao vào Sài Gòn giúp việc cho một hiệu may. Thời kỳ này, ông bắt đầu sáng tác và mơ ước được đi xa, mở mang kiến thức, trau dồi tài năng, xây dựng một sự nghiệp văn học có ích. Nhưng rồi vì ốm yếu, Nam Cao lại trở về quê và thất nghiệp. Sau ông lên Hà Nội, dạy học ở một trường tiểu học tư thục. Nhưng cuộc đời “giáo khổ trường tư” đó cũng không yên: quân Nhật vào Đông Dương, trường của ông phải đóng cửa để làm chuồng ngựa cho lính Nhật. Nhà văn – lại thất nghiệp, sông lay lắt bằng nghề viết văn và làm gia sư, trong khi gia đình ở quê đang ngày càng khốn khó. Năm 1943, Nam Cao tham gia Hội văn hóa cứu quốc. Tháng 11 năm 1951, trên đường vào công tác vùng sau lưng địch thuộc Liên khu III, Nam Cao đã bị địch phục kích bắt được và bắn chết gần Hoàng Đan (thuộc tỉnh Ninh Bình khi đó). Nhà văn ngã xuống giữa lúc ông đang bước vào thời kỳ “chín” mới về tư tưởng và tài năng, hứa hẹn những sáng tác có tầm vóc về thời đại mới.

Trước cách mạng, Nam Cao thường mang nặng tâm sự u uất, bất đắc chí. Đó không chỉ là tâm sự người nghệ sĩ “tài cao, phận thấp, chí khí uất” (thơ Tản Đà), mà còn là nỗi bi phẫn sâu xa của người trí thức giàu tâm huyết trước cái xã hội bóp nghẹt sự sống con người khi đó. Song Nam Cao không vì bất mãn cá nhân mà trở nên khinh bạc, trái lại ông có một tấm lòng thật đôn hậu, chan chứa yêu thương. Đặc biệt, sự gắn bó ân tình sâu nặng với bà con nông dân nghèo khổ ruột thịt ở quê hương là nét nổi bật ở Nam Cao. Chính tình cảm yêu thương gắn bó đó là một sức mạnh bên trong của nhà văn, giúp ông vượt qua những cám dỗ của lối sống thoát ly hưởng lạc, tự nguyện tìm đến và trung thành với con đường nghệ thuật hiện thực “vị nhân sinh”.

Bình sinh, Nam Cao thường day dứt, hối hận vì những sai lầm – có khi chi trong ý nghĩ – của mình. Người trí thức “trung thực vô ngần” (lời Tô Hoài) ấy luôn nghiêm khắc tự đấu tranh bản thân để vượt mình, cố thoát khỏi lối sống tầm thường, nhỏ nhen, khao khát hướng tới “tâm hồn trong sạch và mơ tới những cảnh sống, những con người thật đẹp” (Nhật ký Nam Cao, ghi ngày 31 tháng 8 năm 1950). Có thể nói, giá trị to lớn của sự nghiệp văn học của Nam Cao gắn liền với cuộc đấu tranh bản thân trung thực, dũng cảm trong suốt cuộc đời cầm bút của nhà văn.

Cuộc đời lao động nghệ thuật vì lý tưởng nhân đạo, lý tưởng cách mạng và sự hy sinh anh dũng của Nam Cao mãi mãi là tấm gương cao đẹp của một nhà văn – chiến sĩ. Trong cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn suy nghĩ về “sống và viết”. Ban đầu, ông chịu ảnh hưởng sâu của phong trào lãng mạn đương thời, đã sáng tác những bài thơ, chuyện tình lâm li dễ dãi. Nhưng ông đã dần dần nhận ra rằng thứ văn chương đó rất xa lạ đối với đời sống lầm than của đông đảo quần chúng nghèo khổ xung quanh. Và ông đã đoạn tuyệt với nó để tìm đến con đường nghệ thuật hiện thực “vị nhân sinh”. Trong truyện ngắn “Trăng sáng” (1943), được coi là một tuyên ngôn nghệ thuật đanh thép, cảm động, ông viết: “Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”. Theo Nam Cao, người cầm bút không được “trốn tránh” sự thực, mà hãy “cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời…”

Lên án văn chương thoát ly, Nam Cao không tán thành loại sáng tác “chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội”. Trong truyện ngắn “Đời thừa” (1943), Nam Cao cho rằng một tác phẩm “thật giá trị” thì phải có nội dung nhân đạo sâu sắc: “Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn”. Đồng thời, nhà văn đòi hỏi cao sự tìm tòi sáng tạo trong nghề văn và lương tâm người cầm bút. Ông viết: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có” (Đời thừa). Ông coi sự cẩu thả trong nghề văn chẳng những là “bất lương” mà còn là “đê tiện”. Sau cách mạng, Nam Cao say mê, tận tụy trong mọi công tác phục vụ kháng chiến được giao, không nề hà lớn nhỏ, với ý nghĩa dứt khoát: lợi ích cách mạng, lợi ích dân tộc là trên hết.

Nam Cao có sáng tác đăng báo từ 1936, nhưng sự nghiệp văn học của ông chỉ thật sự bắt đầu từ truyện ngắn “Chí Phèo” (1941), sáng tác của Nam Cao trước cách mạng tập trung vào hai đề tài chính: cuộc sống người trí thức tiểu tư sản nghèo và cuộc sống người nông dân ở quê hương. Ở đề tài người trí thức tiểu tư sản, đáng chú ý là các truyện ngắn: Những truyện không muốn viết, Trăng sáng, Mua nhà, Truyện tình, Quên điều độ, Cười, Nước mắt, Đời thừa… và tiểu thuyết Sống mòn (1944). Trong những sáng tác này, Nam Cao đã miêu tả hết sức chân thực tình cảnh nghèo khổ, dở sống dở chết của những người nghèo, những “giáo khổ trường tư”, nhà văn nghèo, viên chức nhỏ… Nhà văn đặc biệt đi sâu vào những bi kịch tâm hồn của họ, qua đó, đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, vượt khỏi phạm vi của đề tài. Đó là tấn bi kịch dai dẳng, thầm lặng mà đau đớn của người trí thức có ý thức sâu sắc về giá trị sự sống và nhân phẩm, có hoài bão lớn về một sự nghiệp tinh thần, nhưng lại bị gánh nặng về cơm áo và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho “chết mòn”, phải sống cuộc “đời thừa”. Những tác phẩm đó đã phê phán sâu sắc xã hội phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con người, đồng thời, đã thể hiện sự tự đấu tranh bên trong của người trí thức tiểu tư sản trung thực cố vươn tới một cuộc sống đẹp đẽ, thực sự có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống con người.

Nam Cao để lại chừng hai chục truyện ngắn viết về cuộc sống tăm tối thê thảm của người nông dân đương thời. Những truyện đáng chú ý là: Chí Phèo, Trẻ con không được ăn thịt chó, Mua danh, Tu cách mõ, Điếu văn, Một bữa no, Lão Hạc, Một đám cưới, Lang Rận, Dì Hảo, Nửa đêm… Ở đề tài này, Nam Cao thường quan tâm tới những hạng cố cùng, những số phận hẩm hiu, bị ức hiếp nhiều nhất. Họ càng hiền lành, nhịn nhục thì càng bị chà đạp phũ phàng. Ông đặc biệt đi sâu vào những trường hợp con người bị lăng nhục một cách độc ác, bất công, mà xét đến cùng, chẳng qua chỉ vì họ nghèo đói, khốn khổ. Tuy giọng văn lắm khi lạnh lùng, nhưng kỳ thực, Nam Cao đã dứt khoát bênh vực quyền sống và nhân phẩm những con người bất hạnh, bị xã hội đẩy vào tình cảnh nhục nhã đó (Chí Phèo, Một bữa no, Tư cách mõ, Lang Rận). Viết về những người nông dân bị lưu manh hóa, nhà văn đã kết án sâu sắc cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thế xác và linh hồn người nông dân lao’ động, đồng thời, ông vẫn phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện, đẹp đẽ của họ, ngay trong khi họ bị vùi dập tới mất cả hình người, tính người. Nhà văn đã đặt ra vấn đề phải xác định “đôi mắt” đúng đắn để nhìn nhận về quần chúng. Ông luôn ý thức “cố mà tìm hiểu” cái “bản tính tốt” của người nông dân nghèo thường bị “che lấp”, vùi dập. Trong nhiều tác phẩm, Nam Cao không những đã vạch ra nỗi khổ cùng cực của người nông dân mà còn thể hiện cảm động bản chất đẹp đẽ, cao quý trong tâm hồn của họ (Lão Hạc, Một đám cưới, Dì Hảo…).

Có thể nói, dù viết về người trí thức nghèo hay về người nông dân cùng khổ, diều làm cho Nam Cao day dứt tới đau đớn là tình trạng con người bị xói mòn về nhân phẩm, thậm chí bị hủy diệt cả nhân tính, trong cái xã hội phi nhân đạo đương thời.

Cũng như các nhà văn tiểu tư sản khác chưa nắm được chân lý cách mạng, Nam Cao không thấy được khả năng đổi đời của những người khốn cùng và triển vọng của xã hội. Song trong truyện ngắn “Điếu văn” (1944), ông đã viết những dòng dự báo sôi nổi: “Sự đời không thể cứ mù mịt mãi thế này đâu. Tương lai phải sáng sủa hơn. Một rạng đông đã báo rồi!”. Đó là lời chào đón thắm thiết tia sáng rạng đông đang báo hiệu ở chân trời lúc bấy giờ. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Nam Cao lao mình vào mọi công tác cách mạng và kháng chiến. Truyện ngắn Đôi mắt (1948) là một thành công xuất sắc của văn nghệ kháng chiến khi đó. Nhìn vào hình ảnh một trí thức cũ đi tản cư theo kháng chiến nhưng giữ nguyên lối sống trưởng giả, nhởn nhơ và “đôi mắt” khinh thường đối với quần chúng – hình ảnh thật lạc lõng giữa cuộc sống kháng chiến lành mạnh sôi nổi lúc bấy giờ. Người trí thức đi theo cách mạng càng thêm dứt khoát từ bỏ con người cũ, lôi sông cũ và quyết tâm “cách mạng hóa tư tưởng, quần chúng hóa sinh hoạt”, trở thành những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa. “Nhật kí ở rừng” (1948) viết trong thời kỳ nhà văn công tác ở vùng sâu Bắc Cạn và tập kí sự “Chuyện biên giới” (1950) viết khi ông đi chiến dịch Cao – Lạng đều là những sáng tác giá trị của nền văn xuôi mới còn non trẻ khi đó. Nhà văn hy sinh giữa lúc tư tưởng và tài năng đang độ phát triển nhất trong thời đại mới, đầy hứa hẹn.

Ngòi bút Nam Cao vừa tỉnh táo, sắc lạnh, vừa nặng trĩu suy nghĩ và đằm thắm yêu thương. Văn Nam Cao vừa hết sức chân thực – ông coi sự thực là trên hết, không gì ngăn được nhà văn đến với sự thực – vừa thấm đượm ý vị triết lý trữ tình. Ông có sở trường diễn tả, phân tích tâm lý con người. Ngôn ngữ trong văn đầy sống động, uyển chuyển, tinh tế, rất gần với lời ăn tiếng nói quần chúng.

Với một tài năng lớn, giàu sức sáng tạo, Nam Cao đã góp phần quan trọng vào việc cách tân nền văn xuôi Việt Nam theo hướng hiện đại hóa.

Nam Cao ( 1917 – 1951) là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại.

Tên khai sinh của nhà văn là Trần Hữu Tri, sinh ra trong một gia đình nông dân. Quê ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, phủ Lý Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân), tỉnh Hà Nam. Sau khi học hết bậc Thành trung, Nam Cao vàng Sài Gòn kiếm sống và bắt đầu sáng tác. Sau hơn ba năm đau ốm, ông phải trở về quê. Sau đó, ông dạy học cho một trường tư thục ở ngoại ô Hà Nội. Nhưng cuộc đời của một ông giáo trường tư cũng không được yên ổn: Nhật kéo vào Đông Dương, trường học phải đóng cửa, ông sống chật vật, vất vả bằng nghề viết văn và làm gia sư.Đầu năm 1943, Nam Cao tham gia nhóm Văn hóa cứu quốc ở Hà Nội, nhưng bị địch khủng bố gắt gao, ông phải lánh về quê, tham gia cuộc Tổng khởi nghĩa (8 – 1945) ở Lý Nhân. Năm 1946, ông có mặt trong đoàn quân Nam tiến với tư cách là một phóng viên. Năm 1947, ông lên Việt Bắc làm công tác báo chí, tuyên truyền phục vụ kháng chiến. Tháng 11 năm 1951, trên đường vào công tác ở vùng địch hậu Liên khu III, ông bị giặc phục kích và sát hại.

Con người Nam Cao nhìn bề ngoài có vẻ lạnh lùng, vụng về, ít nói, nhưng đời sống nội tâm lại rất phong phú. Ông là người có tấm lòng đôn hậu, chan chứa yêu thương, gắn bó sâu nặng giàu ân tình với quê hương, những người nghèo khổ bị áp bức, khinh miệt trong xã hội cũ. Nam Cao quan niệm rằng không có tình yêu thương đồng loại thì không đáng gọi là con người (Đời thừa).

Trong suốt cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn suy nghĩ về vấn đề “sống và viết”, rất có ý thức về quan điểm nghệ thuật của mình. Khi mới cầm bút, Nam Cao còn chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn đương thời. Nhưng ông dần nhận ra thứ văn chương đó rất xa lạ với đời sống lầm than của nhân dân lao động, ông quyết định đoạn tuyệt với nó để tìm đến con đường nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa. Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao được thể hiện ngay trong các tác phẩm của ông. Với Nam Cao, “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì đó lớn lao, mạnh mẽ, đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn” (Đời thừa, 1943). Ông cũng luôn đòi hỏi rất cao sự tìm tòi sáng tạo trong nghề viết văn: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những gì chưa có” (Đời thừa, 1943). Sau Cách mạng, ông vẫn tích cực tham gia vào cuộc kháng chiến, sẵn sàng hy sinh thứ nghệ thuật cao siêu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ông quan niệm rằng: “Sống đã rồi hãy viết”, “góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này chính là để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn” (Nhật kí ở rừng, 1948).

Advertisement

Các sáng tác của nhà văn Nam Cao xoay quanh hai mảng đề tài chính. Đó là người nông dân nghèo đói bị vùi dập với các tác phẩm nổi tiếng như Lão Hạc, Chí Phèo, Dì Hảo, Một bữa no, Một đám cưới, Trẻ con không được ăn thịt chó, Mua danh… Và người trí thức nghèo, sống mòn mỏi bế tắc trong xã hội xưa cũ: Đời thừa, Giăng sáng, Những truyện không muốn viết, Mua nhà, Quên điều độ, Cười… Dù viết về người nông dân hay người trí thức, các sáng tác của Nam Cao vẫn chứa đựng một nội dung triết học sâu sắc. Ông luôn trăn trở về vấn đề nhân phẩm, thái độ trọng khinh đối với con người. Thậm chí ông luôn day dứt tới mức đau đớn trước tình trạng xã hội vô nhân đạo đã đày đọa con người trong sự nghèo đói, vùi dập ước mơ, lẽ sống cao đẹp của họ. Các sáng tác sau cách mạng của Nam Cao chủ yếu phục vị cuộc kháng chiến với các tác phẩm như: Nhật ký ở rừng (1948), truyện ngắn Đôi mắt (1948), tập kí sự Chuyện biên giới (1950)…

Mỗi nhà văn đều có phong cách sáng tác riêng. Đó là thứ “vân tay” để phân biệt dấu ấn của các tác giả. Nam Cao cũng vậy. Ông là nhà văn có biệt tài diễn tả, phân tích tâm lí nhân vật. Nam Cao tỏ ra sắc sảo trong việc phân tích, diễn tả những trạng thái, quá trình tâm lý phức tạp, hiện tượng lưỡng tính dở say dở tỉnh, dở khóc dở cười… Ngoài ra, ông còn tạo được những đoạn đối thoại, độc thoại nội tâm rất chân thật, sinh động.

Như vậy, Nam Cao quả là một nhà văn xuất sắc của nền văn học hiện thực Việt Nam. Bạn đọc yêu văn Nam Cao sẽ còn mãi nhớ đến những giá trị sâu sắc trong các sáng tác của ông.

Nam Cao (1917 – 1951) là một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với hoàn thiện truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam hiện trên quá trình hiện đại hóa ở nửa đầu thế kỉ XX.

Nam Cao tên khai sinh là Trần Hữu Tri. Quê làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân (nay là xã Hoà Hậu, huyện Lý Nhân), tỉnh Hà Nam. Ông được coi là một nhà văn hiện thực xuất sắc trước Cách mạng tháng 8, với những truyện ngắn, truyện dài chân thực viết về người nông dân nghèo đói bị vùi dập và người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ. Sau Cách mạng, Nam Cao sáng tác tận tụy sáng tác phục vụ kháng chiến. Ông đã hy sinh trên đường vào công tác vùng sau lưng địch tháng 11 năm 1951.

Nam Cao luôn quan niệm rằng: “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì đó lớn lao, mạnh mẽ, đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn” (Đời thừa, 1943). Đối với nghề viết văn, Nam Cao cho rằng: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những gì chưa có” (Đời thừa, 1943). Ông còn cho rằng: “Nghệ thuật vị nhân sinh” – văn chương phải hướng đến cuộc sống của con người.

Nam Cao là nhà văn có biệt tài diễn tả, phân tích tâm lí nhân vật. Nam Cao tỏ ra sắc sảo trong việc phân tích, diễn tả những trạng thái, quá trình tâm lý phức tạp, hiện tượng lưỡng tính dở say dở tỉnh, dở khóc dở cười… Ngoài ra, ông còn tạo được những đoạn đối thoại, độc thoại nội tâm rất chân thật, sinh động.

Các sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng xoay quanh hai mảng đề tài chính: người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Về mảng đề tài người trí thức nghèo, Nam Cao miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người trí thức nghèo trong xã hội đương thời trước 1945, đó là những “giáo khổ trường tư” – những nhà văn nghèo, những viên chức nhỏ. Họ là những trí thức có hoài bão, tâm huyết và tài năng; nhưng lại bị gánh nặng áo cơm và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho “chết mòn” và phải sống như “một kẻ vô ích, một người thừa”. Qua đó nhà văn muốn phê phán sâu sắc xã hội ngột ngạt, phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con người, đồng thời nói lên khao khát một lẽ sống lớn, có ích, có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống con người. Về mảng đề tài người nông dân nghèo, Nam Cao đã vẽ lên một bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với cảnh nghèo đói, xơ xác và thậm chí bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nam Cao không hề bôi nhọ người nông dân, trái lại, đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để khẳng định nhân phẩm và bản chất lương thiện ngay cả khi bị vùi dập, cướp mất cà nhân hình, nhân tính của người nông dân. Đồng thời, ông cũng kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đó trước 1945. Sau Cách mạng, Nam Cao là cây bút tiêu biểu của văn học giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) với những tác phẩm phục vụ cuộc kháng chiến.

Các tác phẩm của Nam Cao thuộc nhiều thể loại khác nhau. Về truyện ngắn có Chí Phèo (1941), Giăng sáng (1942), Đời thừa (1943), Một đám cưới (1944), Đôi mắt (1948)…; tiểu thuyết: Sống mòn (1944)…; thể loại khác: Nhật kí ở rừng (1948), kí sự Chuyện biên giới (1951)…

Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nam Cao có thể kể đến truyện ngắn Chí Phèo. “Chí Phèo” là một trong những truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Nam Cao. Truyện ban đầu có tên là Cái lò gạch cũ. Nhưng khi in thành sách lần đầu, nhà xuất bản đã tự đổi tên là Đôi lứa xứng đôi (NXB Đời mới, Hà Nội, 1941). Năm 1946, khi in lại trong tập Luống cày, Nam Cao đã đổi tên thành Chí Phèo. Chí Phèo là một trong những kiệt tác văn xuôi Việt Nam hiện đại với giá trị hiện thực và nhân văn sâu sắc. Truyện kể về cuộc đời của Chí Phèo – một đứa trẻ mồ côi bị bỏ lại trong một cái lò gạch bỏ không. Sau này, Chí được dân làng truyền tay nhau nuôi lớn. Đến năm hai mươi tuổi, Chí đến làm canh điền cho nhà Bá Kiến. Chỉ vì một chuyện ghen tuông không đâu, bá Kiến đã đẩy Chí đi ở tù. Khi từ tù ra, Chí Phèo đã hoàn toàn thay đổi cả về nhân hình lẫn nhân tính. Hắn trở thành tay sai đi đòi nợ thuê cho Bá Kiến, chuyên đi uống rượu và vạch mặt ăn vạ. Cả làng Vũ Đại đều sợ Chí. Tình cờ, một lần Chí Phèo đã gặp Thị Nở – người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn. Hắn ôm chầm lấy Thị Nở và ăn nằm với Thị. Sáng hôm sau, Chí Phèo bị cảm, Thị Nở nấu cho Chí bát cháo hành để giải rượu. Chính bát cháo đã làm Chí Phèo thức tỉnh, khao khát trở về làm người lương thiện. Nhưng lời nói của bà cô do thị Nở nhắc lại khiến Chí đau đớn và tuyệt vọng. Hắn uống rượu và xác dao định đến nhà đâm chết thị và bà cô. Nhưng Chí lại đến nhà đâm chết Bá Kiến rồi tự sát. Chí Phèo là nhân vật điển hình, có tính khái quát cho một bộ phận nhân dân lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh, tha hóa. Với nhân vật này, nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đã tàn phá cả thế xác lẫn tâm hồn của người nông dân lao động. Đồng thời, qua đó Nam Cao cũng khẳng định bản chất lương thiện của họ ngay cả khi bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính. “Chí Phèo” đã trở thành một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao.

Có thể thấy, Nam Cao là một nhà văn đã có những đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Các tác phẩm của ông đã để lại nhiều bài học giá trị sâu sắc cho người đọc.

Nam Cao (1915 – 1951) là nhà văn Việt Nam, người đại diện tiêu biểu của trào lưu văn học hiện thực phê phán trong thời kì phát triển cuối cùng (1940 – 1945), là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.

Tên khai sinh của ông là Trần Hữu Tri, quê làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân (nay là xã Hoà Hậu, huyện Lý Nhân), tỉnh Hà Nam. Ông được coi là một nhà văn hiện thực xuất sắc trước Cách mạng tháng 8, với những truyện ngắn, truyện dài chân thực viết về người nông dân nghèo đói bị vùi dập và người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ. Sau Cách mạng, Nam Cao chân thành, tận tụy sáng tác phục vụ kháng chiến. Ông đã hy sinh trên đường vào công tác vùng sau lưng địch, để lại một tấm gương cao đẹp của một nhà văn – chiến sĩ.

Quan niệm nghệ thuật của Nam Cao là: “Nghệ thuật vị nhân sinh” (tức là nghệ thuật phải viết về con người và hướng đến những điều tốt đẹp của con người); ông phê phán quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Nhà văn đã có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam trên quá trình hiện đại hóa ở nửa đầu thế kỉ XX. Ông luôn suy nghĩ về vấn đề và rất có ý thức về quan điểm nghệ thuật của mình.

Về phong cách nghệ thuật, Nam Cao đề cao con người tư tưởng, đặc biệt chú ý tới hoạt động bên trong của con người, coi đó là nguyên nhân của những hoạt động bên ngoài – đây là phong cách rất độc đáo của Nam Cao. Ông quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn hứng thú khám phá “con người trong con người”. Tâm lí nhân vật trở thành trung tâm của sự chú ý, là đối tượng trực tiếp của ngòi bút Nam Cao. Ông thường viết về những cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh. Từ cái sự tầm thường quen thuộc trong đời sống hàng ngày của “Những truyện không muốn viết”, tác phẩm của Nam Cao làm nổi bật vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn triết lý sâu sắc về con người, cuộc sống và nghệ thuật. Giọng điệu riêng, thường có sắc thái buồn thương, chua chát. Ông có phong cách nghệ thuật triết lý trữ tình sắc lạnh.

Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao được chia làm hai giai đoạn: trước Cách mạng và sau Cách mạng. Một số tác phẩm trước cách mạng như Chí Phèo, Trăng sáng, Đời thừa, Sống mòn. Một số tác phẩm sau Cách mạng như truyện ngắn Đôi mắt , tập nhật kí Ở rừng…

Trong số đó nổi bật là truyện ngắn Lão Hạc. Đây là một trong những truyện ngắn viết về người nông dân của Nam Cao, đăng báo lần đầu năm 1943. Tác phẩm được đánh giá là một trong những truyện ngắn khá tiêu biểu của dòng văn học hiện thực, nội dung truyện đã phần nào phản ánh được hiện trạng xã hội Việt Nam trong giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám. Câu chuyện kể về lão Hạc có một người con trai, một mảnh vườn và một con chó vàng. Con trai lão Hạc đi phu đồn điền cao su, lão chỉ còn lại “cậu Vàng”. Vì muốn để lại mảnh vườn cho con, lão phải bán con chó mặc dù hết sức buồn bã và đau xót. Lão mang tiền dành dụm được gửi ông giáo và nhờ trông coi mảnh vườn. Cuộc sống mỗi ngày một khó khăn, lão kiếm được gì ăn nấy và bị cảm một trận khủng khiếp. Lão từ chối tất cả những gì ông giáo giúp. Một hôm lão xin Binh Tư ít bả chó nói là để giết con chó hay đến vườn, làm thịt và rủ Binh Tư cùng uống rượu. Ông giáo rất buồn cho lão khi nghe tin Binh Tư kể chuyện ấy. Lão bỗng nhiên chết – cái chết thật dữ dội. Cả làng không hiểu vì sao lão chết, trừ Binh Tư và ông giáo. Cái chết của lão đau đớn và dữ dội, gây cho người đọc nhiều sự xúc động, xót xa. Truyện được thể hiện qua lời kể của nhân vật tôi – ông giáo, và dường như đâu đó trong nhân vật này ta thấy hiện lên giọng kể của tác giả.Nghệ thuật viết truyện của Nam Cao có những đặc sắc, độc đáo mà đa dạng.

Tác phẩm của Nam Cao vừa rất mực chân thật vừa có một ý vị triết lý, một ý nghĩa khái quát sâu xa. Ngòi bút hiện thực tỉnh táo nghiêm ngặt vừa sắc lạnh, gân guốc lại vừa thắm thiết trữ tình. Nhà văn tỏ ra có sở trường miêu tả tâm lí con người, nhất là khi đi vào những diễn biến tâm lý tinh tế, phức tạp. Có thể nói, về nhiều mặt, tác phẩm Nam Cao đánh dấu một bước phát triển mới của văn xuôi quốc ngữ Việt Nam, mới hình thành hơn nửa thế kỉ nhưng đang hiện đại hoá với một tốc độ thật nhanh chóng.

Có thể khẳng định được rằng, nhà văn Nam Cao đã để lại trong lòng độc giả yêu văn học hiện thực những ấn tượng vô cùng sâu sắc. Các tác phẩm của ông vẫn sẽ còn sống mãi với thời gian.

Văn Mẫu Lớp 9: Thuyết Minh Về Con Mèo 2 Dàn Ý &Amp; 12 Bài Văn Mẫu Lớp 9 Hay Nhất

TOP 12 bài văn Thuyết minh về con mèo SIÊU HAY, kèm theo 2 dàn ý chi tiết. Qua đó, giúp các em học sinh lớp 9 hiểu rõ hơn về những tập tính, sở thích, khả năng tự vệ cũng như vai trò của con mèo.

Mèo là động vật thân thiện, dễ gần, mèo rất thích leo trèo và bắt chuột. Tương tự khi viết bài văn thuyết minh con chó, thì thuyết minh con mèo các em cũng cần tìm hiểu thật kỹ, rồi lựa chọn những chi tiết đặc sắc để nhanh chóng hoàn thiện bài văn của mình.

Dàn ý thuyết minh về con mèo (2 mẫu)

Bài văn thuyết minh con mèo hay nhất (12 mẫu)

1. Mở bài

Dẫn dắt vào vấn đề: Bằng bài ca dao “Chị ơi em có con mèo… vồ được ngay”

Giới thiệu loài vật cần thuyết minh: Con mèo.

2. Thân bài

– Mèo là loài vật có vú và ăn thịt, sống trong nhà như một thú nuôi, có loại sống hoang dã

– Nguồn gốc: Mèo rừng Châu Phi

– Các giống mèo: Tam thể, mèo mun, mèo mướp, mèo Ba Tư lông dài, mèo Văn Thổ,…

– Cân nặng trung bình: Từ 2 kg đến 8 kg

– Tuổi thọ: 12 – 18 năm

– Sinh sản:

Mèo sinh theo lứa, mỗi lứa từ một đến bốn con

Mèo con được 4 tuần sẽ được mẹ dạy cách leo trèo, kiếm mồi, săn mồi… Chúng thường học khá nhanh và rất nhanh chóng thích nghi được với cuộc sống

– Tập tính và sở thích của mèo:

Giao tiếp thông qua tiếng kêu “meo meo”, tiếng gầm gừ

Thích đùa giỡn, nô nghịch, chạy nhảy

Khả năng chạy nước rút giỏi với tốc độ lớn

Chúng nhảy cao và leo trèo rất giỏi: Có thể nhảy từ mép đất lên đến độ cao 8 mét

Chúng thích cuộn tròn trong vòng tay chủ, ngắm nhìn cảnh vật; thích ngủ và ngủ nhiều: Trung bình mèo ngủ từ 12 – 16h/ một ngày

Đặc tính là sợ lạnh và sợ nước

Chúng ưa sạch sẽ, có khả năng tự vệ sinh cơ thể bằng cách liếm láp

– Tính tình mèo: Thất thường khi thì lười biếng, nằm ưu tư khi thì thích chạy nhảy, năng động

– Khả năng tự vệ:

Tầm nhìn tốt vào buổi tối; khứu giác tốt gấp 14 lần so với con người nên có thể ngửi những mùi chúng ta không nhận biết được

Móng vuốt sắc thường được thu lại trong lông và đệm ngón chân.

– Cách ăn uống:

Thức ăn chính: Chuột, cóc, nhái…; món ăn khoái khẩu là cá và chuột

Mèo ăn rất từ tốn, nhẹ nhàng.

– Mèo thường được nuôi làm thú cưng, vật nuôi trong nhà để đuổi chuột.

3. Kết bài

Nêu suy nghĩ và cảm xúc của bản thân về con mèo.

I. Mở bài

Giới thiệu về loài mèo, con vật gần gũi với chúng ta.

II. Thân bài

1. Đặc điểm

Mèo là động vật bốn chân, thuộc lớp thú, lông dày, nhiều màu khác nhau.

Ria mép: dài, có màu đen.

Tai: có thể nghe âm thanh từ rất xa, nhạy cảm với âm thanh.

Mắt: ban đêm, mắt mèo mở to như trăng rằm, mắt mèo có hình hạt táo.

Chân: cũng như chó thì mèo có móng vuốt dài, bàn chân có đệm thịt dày.

Đuôi: dài nhiệm vụ chính là giữ thăng bằng.

2. Tập tính

Mèo thích ấm áp, sợ rét.

Mèo rất thích leo trèo, bắt chuột.

Loài mèo thích được vuốt ve.

3. Vai trò

Con mèo loài vật có ích: bắt chuột để bảo vệ mùa màng, giữ gìn đồ dùng tránh xa sự phá hoại của chuột.

Nhiều người nuôi để làm cảnh với nhiều giống mèo đẹp.

III. Kết bài

Nêu lên được vai trò, lợi ích của loài mèo đối với con người.

Có những chú mèo nhỏ bên cạnh, cùng vui, cùng chơi hay đơn giản là được ôm ấp vào lòng là điều rất thích thú. Thú vị biết bao khi bắt gặp ảnh chú mèo cuộn tròn mình nằm sân sưởi nắng. Những chú mèo nhỏ nhắn, xinh đẹp ấy là điều thôi thúc em tìm hiểu về chúng.

Mèo là loài động vật có vú và ăn thịt, nó sống trong gia đình như một thú nuôi, cũng có loài sống hoang dã. Tổ tiên của loài mèo trước khi được thuần hoá là mèo rừng Châu Phi. Nhiều giống mèo mà chúng ta thường gặp như mèo tam thể, mèo mun, mèo mướp, mèo Ba Tư lông dài, mèo Văn Thổ,…

Mèo giao tiếp thông qua tiếng kêu “meo meo”, tiếng gầm gừ. Tiếng kêu của chúng luôn là nỗi ám ảnh khó tả của những chú chuột và là vũ khí rất lợi hại của nó. Mỗi chú mèo thường nặng từ 2kg đến 8kg, có thể nhẹ hơn hoặc nặng hơn tùy thuộc vào mỗi giống, tuổi thọ của chúng thường từ mười hai đến mười tám năm. Mèo sinh theo lứa, mỗi lứa từ một đến bốn con, những chú mèo con lúc mới sinh ra trông rất đáng yêu và khá nhanh nhẹn. Sau khi sinh bốn tuần thì mèo con được mẹ dạy cách leo trèo, dạy cách kiếm mồi, săn mồi. Mèo con thường học khá nhanh và nhanh chóng thích nghi với cuộc sống. Những chú mèo có bộ lông mượt mà với những màu sắc khác nhau, bộ lông chúng có tác dụng giữ ấm cho cơ thể, những lúc đùa nghịch trông chúng thật đáng yêu và duyên dáng, quyến rũ vô cùng. Những chú mèo thường thích đùa giỡn, chơi đùa cùng trẻ nhỏ và khá thân thiện với những vật nuôi khác trông nhà. Nhiều lúc lại như một vận động viên điền kinh khi vồ bắt con mồi, chúng có khả năng chạy nước rút tài giỏi với tốc độ lớn. Ngoài ra, mèo còn có sở trường về nhảy cao và leo trèo. Chúng có thể nhảy từ mép đất lên đến độ cao hơn 8 mét. Đôi lúc chúng cũng có những thú vui tao nhã như thích cuộn mình trong vòng tay chủ, thích ngắm sự tĩnh lặng và bình yên của cảnh vật vườn nhà qua khung cửa sổ như một thi nhân đang trầm tư trước khung cảnh hữu tình của tạo hoá. Khác với những loài vật khác, mèo rất thích ngủ và ngủ rất nhiều, chúng xem đây như một cách để giữ năng lượng cho cơ thể. Trung bình mỗi ngày bạn mèo của chúng ta ngủ từ mười hai tới mười sáu giờ, thường ngủ vào sáng sớm hoặc trưa chiều và thích hoạt động vào buổi tối. Đặc tính của mèo là rất sợ lạnh, bởi vậy chúng ta hãy gặp chúng ở góc bếp hay chui vào chăn ấm những ngày đông. Mỗi buổi sớm chúng thường ngồi trên giàn mướp hoặc trước sân nhà để sưởi nắng. Tính tình của mèo nhiều khi cũng thất thường như con người vậy, khi lười biếng nằm ưu tư, khi lại ham chạy nhảy, bắt mồi. Giống như loài chó, mèo đi trên đầu ngón chân, mèo đi lại không gây ra tiếng ồn và cũng không để lại dấu vết, chân mèo có những móng vuốt rất sắc, không để ý bạn có thể bị cấu và để lại dấu trên mình, vuốt nó được thu lại trong lông và dạ quanh đệm ngón. Nó có tác dụng giúp mèo tự vệ, bám chắc điểm tựa khi leo trèo và là một vũ khí hữu hiệu phục vụ cho việc săn mồi. Mèo có tầm nhìn tốt vào buổi tối, ban ngày con ngươi trong mắt thường co lại và hẹp, vào ban đêm còn ngươi chúng giãn rộng ra vì vậy tầm nhìn tốt hơn. Mắt mèo gồm ba mí và thường có ba màu xanh, vàng, cam là chủ yếu. Khứu giác của mèo cũng rất tốt, gấp mười bốn lần so với con người nên chúng có thể ngửi những mùi mà chúng ta không nhận biết được.

Thức ăn chính của mèo là những loài vật nhỏ như chuột, cóc, nhái,….Chúng thường tự đi kiếm mồi cùng với sự phục vụ của chủ nhân và các thành viên trong gia đình. Đặc biệt cá và chuột được coi là món ăn khoái khẩu nhất của chúng. Khả năng kiếm mồi nhanh và chính phục con mồi của chúng khá độc đáo. Thỉnh thoảng, bạn sẽ thấy mèo mang về những món quà bất ngờ như một chú cóc nhỏ, một anh chuột chù hay một bộ xương cá của nhà hàng xóm. Mèo ăn rất từ tốn và nhẹ nhàng như cách ăn của người thiếu nữ khi mới về ra mắt gia đình người thương. Mèo rất coi trọng vệ sinh cơ thể và xem đó như một thói quen hàng ngày, đây cũng là điểm khác biệt của mèo số với những động vật khác. Chúng ưa sạch sẽ, sợ ướt, tự vệ sinh bằng cách lè lưỡi ra tiết nước bọt vào chân và xóa lên toàn bộ cơ thể mình. Trong nước bọt của mèo có chứa enzim làm sạch lông. Cũng bởi vậy mà nhiều người thường bảo mèo dạy cho chúng ta bài học về sự sạch sẽ, đoan trang và tế nhị trong từng hành động, cử chỉ.

Hiện nay, mèo là thú cưng khá phổ biến trong gia đình, đặc biệt là các bạn nhỏ. Mèo còn giúp cho gia đình chống được sự tàn phá của các bác chuột mỗi ngày. Bạn hãy thử tưởng tưởng nếu một ngày không có loài vật này thì sẽ như thế nào? Chắc chắn lúc đó loài chuột sẽ hoành hành và gây hại cho con người thật nhiều. Mèo còn là người bạn tâm tình, bầu bạn với con người. Vậy mà vẫn còn đó đây một vài người rất hứng thú với món tiểu hổ, điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn vong của loài vật này. Mỗi người trong chúng ta cần nhận thức được rằng mèo không phải là nguồn thực phẩm và cần bảo vệ chúng.

Nếu loài chó biết trông coi nhà cửa, gà trống báo hiệu trời đã sáng thì mèo lại bắt chuột để bảo vệ một đồ vật trong gia đình. Loài mèo từ lâu đã gắn bó với cuộc sống của con người.

Mèo bắt đầu được thuần hóa và nuôi ở Ai Cập sau đó lan nhanh sang Châu Âu và các khu vực khác trên thế giới. Riêng ở Việt Nam, mèo bắt đầu được nuôi từ khoảng hai nghìn năm trước đây.

Họ nhà mèo có vẻ ngoài nhanh nhẹn. Đầu của chúng tròn, nhỏ và phía trước hơi nhô ra là chiếc miệng của chúng. Trông mèo nhỏ bé nhưng hàm răng nó lại có tới ba mươi chiếc. Trong số này, ngoài bốn chiếc răng nanh sắc nhọn thì hầu hết đều nhỏ xíu. Kỳ lạ nhất là đôi mắt mèo, đôi mắt trong veo như hai hòn bi ve.

Đồng tử mèo có khả năng co giãn cực tốt. Ban ngày, đồng tử thu nhỏ đến đêm mới giãn ra. Thế là mèo ta có thể nhìn rõ trong đêm tối. Thân hình nhỏ bé của mèo được nâng đỡ bởi bốn chân chắc khỏe. Vì nằm trong nhóm động vật bậc thấp nên mèo vẫn có một cái đuôi dài. Mỗi chân mèo đều có bốn ngón, dưới những ngón chân có vuốt cực sắc này là đệm thịt giúp mèo đi lại nhẹ nhàng.

Khi còn nhỏ, có lẽ ai cũng được nghe câu hát: “Meo meo meo, rửa mặt như mèo” và “mèo con ra bể nước, bàn chân nó vuốt vuốt, xoa mấy sợi râu cước”. Hình ảnh chú mèo liếm láp lòng bàn chân trước bên phải của mình cho thật sạch rồi lấy chính chân đó cọ cọ vào mặt mình đã khắc sâu vào tâm trí trẻ thơ. Một tập tính nữa mà ai cũng biết ở mèo đấy là bắt chuột. Bọn chuột xấu xí chuyên đi ăn vụng mỗi khi nghe thấy tiếng “meo meo” của mèo là hồn vía chạy đi đâu hết cả, chỉ còn biết bạt mạng chạy. Cộng thêm với đôi râu và đôi tai nhạy như ra đa mà trời đã ban cho, mèo lại càng bắt được nhiều chuột.

Về tập tính của loài mèo, mèo con được một tháng tuổi đã được mèo mẹ dạy cho những kỹ năng bắt chuột cơ bản như chạy, nhảy, rình mồi, vồ mồi. Trong thời kỳ này, mèo mẹ sẽ dẫn mèo con đi quanh nhà để chúng “tìm hiểu” mọi thứ. Lớn hơn một chút, khoảng từ bốn đến năm tháng tuổi là có thể tự săn mồi. Mèo từ mười đến mười hai tháng tuổi là có thể sinh sản được. Lúc này, mèo cái có bộ lông mới mượt hơn, dày hơn bình thường. Cơ thể mèo lúc này phát ra một mùi đặc biệt và có tiếng kêu khác thường để hấp dẫn mèo đực. Sau khi giao phối, mèo cái lại sống đơn độc như trước và tự nuôi con. Mỗi lứa, mèo mẹ đẻ khoảng hai đến sáu con. Mèo con mới đẻ mắt nhắm nghiền, khoảng một tuần sau mới mở mắt. .

Có rất nhiều loài mèo khác nhau. Mèo mun lông đen tuyền từ đầu tới gót này. Mèo mướp với bộ lông xám tro, mèo vàng lông vàng óng nữa. Có lẽ giống mèo đông đúc nhất, được nuôi phổ biến nhất là mèo tam thể. Loài này lông có màu đen, vàng, trắng pha lẫn với nhau.

Mèo là động vật ăn thịt nên đối tượng săn mồi của chúng thường là những con vật nhỏ như chuột, cá, ếch, cóc… Vũ khí săn mồi của mèo là móng vuốt ở đầu ngón chân có chiều dài hơn 1cm, hình cong bán nguyệt, đầu móng vuốt nhỏ và nhọn sắc bén. Ngày nay mèo thường chung sống với con người nên thức ăn chủ yếu của nó là cơm. Mèo ăn rất ít nên các cụ ta mới có câu “ăn như mèo” song món khoái khẩu của chúng là cơm cá.

Loài mèo có một vai trò quan trọng trong cuộc sống. Đặc biệt là ở Việt Nam, mèo gắn bó mật thiết với con người. Chúng đã trở thành người bạn của nhà nông giúp tiêu diệt lũ chuột ăn hại. Tranh khắc gỗ làng Đông Hồ ở Việt Nam có hai bức tranh “Đám cưới chuột” và “Trạng chuột vinh quy” rất nổi tiếng và ý nghĩa.

Loài mèo có một vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống. Chúng gắn bó với con người, trở thành một “người bạn thân thiết”.

Từ nguồn gốc là thú hoang, động vật đã dần được con người thuần dưỡng và trở thành thú cưng trong gia đình. Trong đó, có thể nói, mèo là loại động vật được con người yêu chiều nhiều nhất. Mèo có nguồn gốc từ mèo rừng và được thuần hóa trở thành giống vật nuôi quen thuộc. Theo những căn cứ khoa học tìm được, loài mèo đã sống gần gũi với loài người trong khoảng từ 3500 – 8000 năm.

Mèo nhà thuộc bộ thú, họ mèo, loài ăn thịt. Một có mèo có kích thước khoảng từ 25 -30 cm và cân nặng từ 2,5kg đến 7kg. Đầu mèo nhỏ, tròn, cử động rất linh hoạt, tùy thuộc theo hướng muốn di chuyển. Mắt mèo cũng có nhiều màu sắc đa dạng như màu vàng, đen, nâu nhưng chủ yếu là màu xanh. Mắt mèo là một bộ phận khá đặc biệt. So với các động vật khác, mèo có tầm nhìn rất tốt vào ban đêm nhưng lại kém đi vào ban ngày. Mắt mèo rất tinh, có thể nhìn khoảng cách rất xa và phát sáng trong bóng tối. Đôi tai của chúng rất thính. Nhờ tính năng động cao của cơ tai mà mèo có thể quay người về một hướng nhưng vểnh tai theo hướng khác. Chúng có một chiếc mũi mèo đen, ươn ướt, rất thính. Chân mèo nhỏ và thon dài, có vuốt và đệm thịt ở phần tiếp xúc với mặt đất giúp đi tốt trên những bề mặt gồ ghề. Da mèo khá dày, nhiều lông. Đuôi mèo dài và uyển chuyển giúp chúng giữ thăng bằng cho mèo trong khi chạy nhảy, leo trèo.

Mèo là loài động vật sinh sản đơn tính, mang thai trong ba tháng. Mèo đẻ rất nhiều lứa, mỗi lứa đẻ từ 3 – 4 con. Mèo con từ một tháng tuổi trở lên đã được mẹ dạy cho các động tác săn mồi như: chạy, nhảy, leo trèo, rình và vồ mồi. Mèo bốn tháng tuổi đã có thể tự mình bắt được chuột, gián hay thạch sùng. Đến thời gian sinh sản, mèo cái sẽ đi tìm mèo đực. Trong thời gian này, mèo sẽ chải chuốt cho mình có bộ lông óng mượt, có mùi và tiếng kêu đặc biệt để hấp dẫn mèo đực.

Mèo là động vật ăn thịt, món ăn khoái khẩu của chúng là cá và chuột. Mèo được biết đến với tính sạch sẽ nhưng lại rất sợ nước và sợ tắm. Để vệ sinh cho cơ thể, chúng thường thè lưỡi ra, tiết nước bọt vào chân rồi bôi lên mặt và toàn thân. Những hoạt động vệ sinh được mèo thực hiện hằng ngày, thường là lúc nó vừa mới ngủ dậy hay vừa đi đâu về, ngay cả khi trên người nó không có vết bẩn gì. Ngoài ra, mèo còn rất thích tắm dưới nắng ấm.

Mèo là loài động vật rất dễ nuôi. Chỉ cần chú ý luôn giữ cho môi trường luôn khô ráo, sạch sẽ và thường xuyên vệ sinh cho chúng. Tính mèo thay đổi theo hoàn cảnh và giới tính nên cần tiêm phòng thường xuyên cho mèo để phòng bệnh dại.

Hình ảnh của loài mèo đã được con người sử dụng để sáng tạo ra các nhân vật như: chú mèo máy Doraemon, mèo Hello Kitty… Giờ đây, chúng không chỉ là vật nuôi mà trở thành thú cưng của con người.

Trong chúng ta, chắc chẳng có ai không biết đến mèo, loài vật nuôi đáng yêu được nhiều gia đình nuôi dưỡng, giống như một thành viên nhỏ.

Mèo là một loài vật vô cùng dễ thương. Nó có một vẻ ngoài nhanh nhẹn, tinh nghịch. Có rất nhiều chú mèo khác nhau với đủ những bộ lông đa dạng màu sắc: trắng, đen vàng, xám, tam thể… Đầu mèo tròn và nhỏ, trên đầu vểnh lên hai cái tai để nghe ngóng mọi thứ xung quanh, có nhiều chú mèo tai cụp vào như chống cái rét lạnh mùa đông vậy. Chú mèo có một bộ râu ria rất oai, như những chiếc ăng ten dò đường và phát hiện mục tiêu vậy, chiếc mũi đen và khá ướt và hay khụt khịt. Đôi mắt của chúng có màu xanh lam, có thể phát sáng trong đêm tối. Hàm răng của chú có ba mươi chiếc. Trong số đó có bốn chiếc răng nanh sắc nhọn, nhỏ xíu. Thân hình mèo được nâng đỡ nở bốn chân chắc khỏe. Vì thuộc nhóm động vật bốn chân nên chú có những móng vuốt sắc nhọn dưới bốn chân đó và những đệm thịt giúp chúng đi lại rất nhẹ nhàng.

Những con mèo có những sở thích rất đặc trưng, nhìn có vẻ lười biếng như việc liếm láp lòng bàn chân và vuốt ria cho thật sạch, hay việc nằm phơi nắng hàng giờ ngoài sân hay trên mái nhà cho bộ lông thêm mượt và bóng bẩy. Cho đến khi đông về, sở thích của chú mèo là cuộn trọn người trên đùi chủ nhân của mình hay bên cạnh lò sưởi để tránh cái giá rét vì bản thân chúng rất sợ lạnh và sẽ dễ chết khi không khí lạnh vào phổi quá nhiều. Một tập tính nữa của những chú mèo là rình mồi và bắt chuột rất cừ. Những bọn chuột hay ăn vụng, cắn những đồ vật trong nhà đều phải khiếp sợ trước dũng sĩ diệt mồi. Vì chú mèo có đôi mắt tinh anh, với đôi đồng tử giãn căng, có thể nhìn trong bóng tối cùng bộ râu do la những tín hiệu khi con mồi xuất hiện. Khi chiến đầu với con mồi, bộ vuốt sắc nhọn vờn con mồi một cách chuẩn xác và dường như bộ lông xù lên cùng dáng đi như khoe chiến lợi phẩm của minh đã khiến những con chuột xấu xí biến mất tăm hơi.

Cũng như bao loài vật khác, khi chúng trưởng thành, chúng bắt đầu bước vào thời kỳ giao phối. Lúc này chúng có bộ lông mượt hơn dày hơn, đặc biệt là những chú mèo đực. còn những con mèo cái, trên cơ thể chúng sẽ có mùi đặc trưng hấp dẫn những con mèo khác phái đến tìm hiểu. Sau khi giao phối, những con mèo mẹ sẽ đẻ ra tầm ba đến sáu con mèo con và thực hiện nhiệm vụ nuôi con của mình. Khi mèo con lớn dần, chúng học cách bắt mồi và sinh tồn giống mẹ của chúng. Và các chú mèo con sẽ có một tương lai mới trở thành vật nuôi đáng yêu trong gia đình.

Mèo là một loài vật quen thuộc với chúng ta trong đời sống, mãi là người bạn thân thiện khiến ta không còn những buồn chán và tẻ nhạt.

Trước đây, loài mèo được nuôi nhiều trong các gia đình để làm nhiệm vụ bắt chuột. Đến ngày nay, mèo đã trở thành thú cưng – một người bạn gắn bó với cuộc sống của con người.

Loài mèo có bốn chân, là động vật thuộc lớp thú. Chúng có nguồn gốc từ mèo rừng và được nuôi đầu tiên ở châu Phi sau đó đến các châu lục khác trên thế giới. Cũng như nhiều loài vật khác, loài mèo có một bộ lông rất dày và mượt mà. Bộ lông của loài mèo có nhiều màu sắc khác nhau tùy thuộc vào từng loài. Mèo có nhiều giống chẳng hạn như mèo mướp, mèo tam thể, mèo Ba Tư, mèo mun… Mỗi một giống mèo mang một đặc điểm về bộ lông cũng như kích thước cơ thể khác nhau nhưng nhìn chung cấu tạo của chúng là giống nhau. Đầu mèo nhỏ. Hai cái tai của mèo luôn vểnh lên. Đôi tai nhỏ nhưng vô cùng thính. Trên mặt của nó có những sợi ria mép. Đây chính là trợ thủ đắc lực của mèo giúp chúng có thể rình bắt chuột một cách dễ dàng. Chuột chính là kẻ thù của loài mèo. Hễ ở đâu có chuột lộng hành loài mèo sẽ tới để dẹp loạt. Chính vì vậy mà chỉ cần nghe thấy tiếng mèo là loài chuột sẽ co giò mà chạy. Đôi mắt của loài mèo lại có một cấu tạo vô cùng đặc biệt. Ban ngày đôi mắt của chúng co lại nhưng đến ban đêm lại giãn ra giúp mèo có thể nhìn được tốt trong bóng tối. Trong đêm tối, con người có thể nhìn thấy đôi mắt mèo sáng lấp lánh. Nhờ có đôi mắt sáng này mà dù trong đêm tối mèo vẫn có thể bắt chuột một cách dễ dàng.

Mèo là loài động vật sợ cái lạnh nên chúng thường thích sinh sống ở những nơi ấm áp. Khí hậu của Việt Nam khá thuận lợi để loài mèo sinh sống và phát triển. Mèo thích cuộn tròn nằm một chỗ, tự vuốt ve bộ lông của mình. Trong những ngày trời mùa đông lạnh giá mọi người có thể nhìn thấy mèo nằm sưởi bên bếp lò, bếp củi hoặc chúng chui vào trong chăn nằm cùng với con người. Những ngày trời nắng thì mèo thích nằm ngoài sân phơi nắng. Bộ lông của mèo khi được chiếu sáng sẽ giúp tổng hợp thành vitamin D, mèo lấy vitamin bằng cách liếm lông. Con người thì vẫn luôn nhầm tưởng rằng con mèo đang tự làm sạch cơ thể. Dưới bàn chân của loài mèo có một lớp đệm thịt dày giúp cho chúng có thể nhảy từ trên cao xuống dưới đất mà không phát ra tiếng động cũng như không bị đau. Chân của loài mèo có móng vuốt giúp chúng có thể bám chắc vào thân cây mỗi khi leo trèo, giúp chúng giữ chặt lấy con mèo hay giúp chúng tự vệ. Mèo có thể cụp những cái móng vuốt này lại.

Mèo là loài vật nuôi có ích giúp con người bắt chuột. Chính vì vậy, con người cũng cần chăm sóc tốt cho người bạn nhỏ của mình.

Có rất nhiều loài vật đã được con người thuần hoá, nuôi dưỡng và trở thành “thú cưng” trong mỗi gia đình. Nhưng trong số đó, có thể nói mèo là loài vật được yêu chiều, nâng niu nhất.

Mèo nhà là một phần loài trong họ mèo (trong họ mèo còn có báo, linh miêu..). Theo những căn cứ khoa học đáng tin cậy thì chúng đã sống gần gũi với loài người trong khoảng từ 3.500 năm đến 8.000 năm.

Có rất nhiều các giống mèo khác nhau, một số không có lông hoặc không có đuôi. Các màu lông mèo rất đa dạng: màu trắng, màu vàng, màu xám tro… Có những chú mèo mang nhiều màu lông nên có những tên gọi như mèo tam thể (có ba màu lông), mèo vằn (hai màu lông chạy xen nhau), mèo đốm…

Mèo con từ một tháng tuổi trở lên đã được mèo mẹ dạy các động tác săn bắt mồi như chạy, nhảy, leo trèo, rình và vồ mồi. Mèo bốn tháng tuổi có thể bắt được chuột, gián, thạch sùng… Chúng giao tiếp bằng cách kêu “meo”, “mi-ao”, “gừ gừ”, rít, gầm gừ và ngôn ngữ cơ thể. Mèo trong các bầy đàn sử dụng cả âm thanh lẫn ngôn ngữ cơ thể để giao tiếp với nhau.

Thông thường mèo nặng từ 2,5kg đến 7kg. Cá biệt, một số chú mèo từng đạt tới trọng lượng 23kg vì được cho ăn quá nhiều. Trái lại, cũng có những chú mèo rất nhỏ (chưa tới 1,8 kg), ở tình trạng nuôi trong nhà, mèo thường sống được từ mười bốn đến hai mươi năm. Chú mèo già nhất từng biết đến trên thế giới đã sống ba mươi sáu năm. Mèo giữ năng lượng bằng cách ngủ nhiều hơn đa số các loài động vật khác, đặc biệt khi chúng già đi. Thời gian ngủ hàng ngày có khác nhau, thường là mười hai đến mười sáu giờ, mức trung bình mười ba đến mười bốn giờ. Một số chú mèo có thể ngủ hai mươi giờ trong ngày. Vì thường chỉ hoạt động nhiều lúc mặt trời lặn, mèo rất hiếu động và hay đùa nghịch vào buổi tối và sáng sớm.

Mèo là những “vận động viên điền kinh” tài giỏi có thể chạy rất nhanh và nhảy xuống đất từ độ cao lớn. Có điều đó vì chúng có cấu tạo cơ thể rất đặc biệt. Chúng có bốn chân, mỗi bàn chân đều có vuốt và đệm thịt ở phần tiếp xúc với mặt đất. Giống như mọi thành viên khác của họ mèo, vuốt của mèo thu lại được. Bình thường, ở vị trí nghỉ các vuốt được thu lại trong da và lông quanh đệm ngón. Điều này giữ vuốt luôn sắc bởi chúng không tiếp xúc với mặt đất cũng như cho phép mèo đi nhẹ nhàng rình mồi. Các vuốt chân trước thường sắc hơn so với phía sau. Mèo có thể giương một hay nhiều vuốt ra tùy theo nhu cầu. Khi rơi từ trên cao xuống, mèo có thể sử dụng cảm giác thăng bằng sắc bén và khả năng phản xạ của nó tự xoay thân tới vị trí thích hợp. Khả năng này được gọi là “phản xạ thăng bằng.” Nó luôn chỉnh lại thăng bằng cơ thể theo một cách, khiến chúng luôn có đủ thời gian thực hiện phản xạ này khi rơi. Giống như chó, mèo là loài vật đi trên đầu ngón chân: chúng bước trực tiếp trên các ngón, các xương bàn chân của chúng tạo thành phần thấp nhìn thấy được của cẳng chân. Mèo có thể bước rất chính xác, bởi vì khi đi, chúng đặt bàn chân sau (hầu như) trực tiếp lên đầu của bàn chân trước, giảm thiểu tiếng ồn và dấu vết để lại. Điều này cũng giúp chúng có vị trí đặt chân sau tốt khi bước đi trên bề mặt gồ ghề.

Hỗ trợ đắc lực cho mèo trong quá trình di chuyển, ngoài chân ra còn có đuôi. Đuôi mèo dài và uyển chuyển, chúng được dùng để xua đuổi ruồi muỗi. Nhưng chức năng chủ yếu là giữ thăng bằng khi chạy nhảy leo trèo.

Tai mèo khá thính. Đa số mèo có tai thẳng vểnh cao. Nhờ tính năng động cao của cơ tai mà mèo có thể quay người về một hướng và vểnh tai theo hướng khác. Mắt mèo cũng là một bộ phận khá đặc biệt. Nghiên cứu cho thấy tầm nhìn của mèo tốt nhất vào ban đêm so với người, và kém nhất vào ban ngày. Màu mắt của mèo khá đa dạng: màu vàng, màu đen, màu nâu, màu xanh… về thính giác, con người và mèo có tầm thính giác ở mức thấp tương tự như nhau, nhưng mèo có thể nghe được những âm thanh ở độ cao lớn hơn, thậm chí tốt hơn cả chó. Khi nghe âm thanh nào đó, tai mèo sẽ xoay về hướng đó; mỗi vành tai mèo có thể quay độc lập về hướng nguồn âm thanh. Khứu giác của mèo cũng rất phát triển. Nó mạnh gấp mười bốn lần so với của con người. Số lượng tế bào khứu giác ở mũi của chúng cũng nhiều gấp đôi, do dó mèo có thể ngửi thấy những mùi mà chúng ta không nhận thấy được.

Mèo là động vật ăn thịt thế nên đối tượng để nó săn mồi cho nhu cầu sinh tồn là những loài vật nhỏ như: chuột, rắn, cóc nhái, cá. Vũ khí để săn mồi là móng vuốt. Khi gặp con mồi, nó thường đứng từ xa cách con mồi khoảng chừng năm đến sáu mét. Sau đó nó nằm bẹp hạ cơ thể xuống sát đất, mắt chăm chăm nhìn không nháy mắt đến đối tượng đồng thời bước tới con mồi cần săn rất nhẹ nhàng. Khi đến gần khoảng cách mà nó cảm thấy ăn chắc, loài mèo tung ra sức mạnh cuối cùng bằng cách đẩy mạnh hai chân sau và đồng thời phóng mạnh toàn cơ thể tới phía trước và dùng móng sắc nhọn duỗi thẳng ra và chụp lấy con mồi. Ngày nay, loài mèo luôn sống với người qua nhiều thế hệ con cháu. Cho nên, thức ăn của loài mèo là cơm hoặc thức ăn sẵn. Nhưng thức ăn ưa thích nhất của loài mèo vẫn là món cá.

Mèo thường tránh nơi ẩm ướt và ở rất sạch sẽ. Để làm vệ sinh cho cơ thể, nó thường thè lưỡi ra, tiết nước bọt vào chân của nó rồi bôi lên mặt và toàn thân thể. Hành động này cho thấy mục đích nó muốn xóa sạch các vết bẩn, ngay cả hơi tay của con người vừa mới bồng hay vuốt ve nó. Loài mèo luôn tự làm lấy vệ sinh cho cơ thể nhiều lần trong ngày, thường là lúc nó mới ngủ dậy hay đi đâu đó về. Hành động đó đã trở thành thói quen thường thấy ở loài mèo ngay cả khi cơ thể của nó không có vết bẩn nào cả.

Trải qua một thời gian dài được con người thuần dưỡng, ngày nay, mèo đã trở thành một loài vật cưng trong nhiều gia đình, đặc biệt là các em nhỏ. Mèo không chỉ là một “người bảo vệ”, một “dũng sĩ diệt chuột” mà còn là một loài vật cảnh hết sức dễ thương. Có lẽ bởi vậy, tình cảm giữa con người và loài mèo sẽ ngày càng gắn bó hơn.

Trong cuộc sống, mỗi con vật lại mang những ý nghĩa và vai trò riêng biệt trong cuộc sống của con người. Nếu con chó luôn trung thành với chủ, giúp trông nom nhà cửa hay chú gà trống báo hiệu sáng sớm tinh mơ thì con mèo nhỏ xinh lại rình bắt chuột để lũ chuột không có cơ hội để phá phách. Và cứ thế con mèo đã trở thành người bạn thân thiết của nhà nông, là con thú cưng của nhiều người.

Mèo nhà là loài động vật thuộc họ mèo (trong đó có báo, linh miêu…). Theo các nghiên cứu thì mèo nhà là loài động vật được thuần hóa mà tổ tiên của chúng là mèo rừng châu Phi. Tính đến thời điểm hiện tại thì mèo nhà đã chung sống cùng con người khoảng 9500 năm. Còn ở Việt Nam thì mèo được nuôi vào khoảng 2000 năm trước đây.

Các giống mèo cũng rất phong phú và đa dạng: có đuôi hoặc không có đuôi và chúng thường tồn tại với nhiều màu lông khác nhau. Tùy vào đặc điểm màu lông thì người ta cũng có thể chia ra làm nhiều loại như mèo mướp, mèo tam thể, mèo hung… nếu như mèo mướp khoác lên mình bộ lông mịn như nhung với sự kết hợp của hai màu rất nổi bật là trắng và đen thì lông của loài mèo hung lại có nhiều vằn đỏ hung. Còn lông của mèo tam thể lại rất đẹp và bắt mắt, những sọc lông trắng tinh xen lẫn với những sọc màu đen sang trọng và màu vàng kiêu sa. Mèo đẻ rất nhiều lứa, mỗi lứa từ ba đến bốn con. Mèo con từ một tháng tuổi trở lên đã được mèo mẹ dạy các động tác săn bắt mồi như chạy, nhảy, leo trèo, rình và vồ mồi.

Mèo được mệnh danh là những vận động viên điền kinh tài ba, là những kẻ chạy nước rút giỏi nhất. Chúng có thể đạt đến tốc độ 30 dặm một giờ và nhảy cao qua đỉnh rào hoặc bức tường cao từ 1,5 đến 3 mét. Những khả năng đặc biệt ấy một phần là nhờ cấu tạo của cơ thể.

Đa số tai mèo đều vểnh lên cao, hai cái tai nhỏ nhỏ xinh xinh hình tam giác với ba mươi hai cơ riêng biệt điều khiển hướng nghe giúp mèo bắt rất nhạy các tín hiệu từ bên ngoài. Đôi mắt của mèo tròn xoe như hai hòn bi ve và có tấm nhìn rất tốt vào ban đêm. Màu sắc của mắt mèo rất đa dạng nhưng phổ biến hơn cả là vàng, xanh lá. Mắt xanh dương thường xuất hiện ở giống mèo Siamese, tuy nhiên cũng có ở những con mèo bị bạch tạng. Nếu một con mèo bạch tạng có đôi mắt xanh dương thì thường sẽ bị điếc. Còn mắt màu cam cũng báo hiệu tai mèo có vấn đề. Chiếc mũi màu phớt hồng lúc nào cũng ươn ướt như người bị cảm cúm. Vì số lượng tế bào ở mũi mèo nhiều gấp đôi con người nên khứu giác của chúng phát triển gấp mười bốn lần chúng ta. Bởi vậy mà loài mèo có thể ngửi thấy những mùi mà chúng ta không thể cảm nhận được cùng với sự hỗ trợ đắc lực của những chiếc ria mép hai bên mũi. Mèo có bốn chân và mỗi chân đều có phần thịt đệm khá dày ở nơi tiếp xúc với mặt đất. Cũng giống như loài chó thì ở mỗi ngón chân mèo có những chiếc móng vuốt nhọn có thể thu lại được. Đó là những vũ khí đắc lực giúp mèo hạ gục đối thủ đồng thời giúp nó đứng vững trên những vật bám. Bộ xương của mèo hơi nhỏ nhưng rất cứng và chắc. Toàn bộ cơ thể mèo có tổng cộng 500 cơ xương gồm 7 đốt sống cổ, 13 đốt sống lưng, 7 đốt sống hông, 2 đốt sống vùng khum và 14 – 28 đốt sống đuôi. Xương sống của mèo có nhiều đốt hơn con người để di chuyển dễ dàng và tránh được tổn thương. Xương đuôi rất dài để giữ thăng bằng cho việc di chuyển. Nhờ bộ xương đó mà mèo có thể cuộn tròn cơ thể hoặc “giảm sóc, giảm nhẹ sang chấn” khi rơi từ độ cao nguy hiểm. Đuôi mèo nhỏ và thuôn dài, cử động rất linh hoạt để xua đuổi ruồi muỗi nhưng chủ yếu là để giữ thăng bằng cho mèo khi chạy nhảy hay leo trèo.

Mèo là động vật ăn thịt nên đối tượng săn mồi của chúng thường là những con vật nhỏ như chuột, cá, ếch, cóc… Vũ khí săn mồi của mèo là móng vuốt ở đầu ngón chân có chiều dài hơn 1cm, hình cong bán nguyệt, đầu móng vuốt nhỏ và nhọn sắc bén. Ngày nay mèo thường chung sống với con người nên thức ăn chủ yếu của nó là cơm. Mèo ăn rất ít nên các cụ ta mới có câu “ăn như mèo” song món khoái khẩu của chúng là cơm cá.

Loài mèo có một vị trí quan trọng trong đời sống. Một số tôn giáo cổ đã tin rằng mèo là những linh hồn cao quý, người bạn đồng hành, hay người hướng dẫn cho con người, và rằng mèo rất thông thái nhưng do không biết nói nên không thể gây ảnh hưởng đến những quyết định của con người. Mèo cũng là động vật đem lại cảm hứng cho võ thuật với dáng đi uyển chuyển, không tiếng động, êm như mèo, giỏi leo trèo, có khả năng nhảy vọt là nguồn cảm hứng môn khinh công. Mèo có những cú cào, tát với hai bộ móng sắc ra đòn nhanh như chớp. Võ mèo hay miêu quyền cũng là một trong những môn võ hay, những động tác mô phỏng của mèo có thể chuyển hóa, phổ quát thành các bài võ, đòn thế tự vệ, chiến đấu hữu hiệu. Ở Việt Nam, mèo gắn bó mật thiết với con người. Đó là bạn của nhà nông giúp tiêu diệt lũ chuột ăn hại. Tranh khắc gỗ làng Đông Hồ ở Việt Nam có hai bức tranh “Đám cưới chuột” và “Trạng chuột vinh quy” rất nổi tiếng và ý nghĩa.

Mèo là loài động vật nhanh nhẹn, tinh xảo và có ích. Bởi vậy mà chúng ta cần yêu quý, bảo vệ và chăm sóc thật tốt cho chúng.

Mèo là một loài động vật đã quá quen thuộc đối với con người. Cũng giống như những loài vật khác, chúng cũng có đặc điểm riêng để phân biệt.

Mèo là loài động vật có vú và ăn thịt, nó sống trong gia đình như một thú nuôi, cũng có loài sống hoang dã. Tổ tiên của loài mèo trước khi được thuần hoá là mèo rừng Châu Phi. Nhiều giống mèo mà chúng ta thường gặp như mèo tam thể, mèo mun, mèo mướp, mèo Ba Tư lông dài, mèo Văn Thổ,…

Mèo giao tiếp thông qua tiếng kêu “meo meo”, tiếng gầm gừ .Tiếng kêu của chúng luôn là nỗi ám ảnh khó tả của những chú chuột và là vũ khí rất lợi hại của nó. Mỗi chú mèo thường nặng khoảng từ 2kg đến 8kg, có thể nhẹ hơn hoặc nặng hơn tùy thuộc vào mỗi giống, tuổi thọ của chúng thường từ mười hai đến mười tám năm. Mèo sinh theo lứa, mỗi lứa từ một đến bốn con, những chú mèo con lúc mới sinh ra trông rất đáng yêu và khá nhanh nhẹn. Sau khi sinh bốn tuần thì mèo con được mẹ dạy cách leo trèo, dạy cách kiếm mồi, săn mồi. Mèo con thường học khá nhanh và nhanh chóng thích nghi với cuộc sống. Những chú mèo có bộ lông mượt mà với những màu sắc khác nhau, bộ lông chúng có tác dụng giữ ấm cho cơ thể, những lúc đùa nghịch trông chúng thật đáng yêu và duyên dáng, quyến rũ vô cùng. Những chú mèo thường thích đùa giỡn, chơi đùa cùng trẻ nhỏ và khá thân thiện với những vật nuôi khác trông nhà. Nhiều lúc lại như một vận động viên điền kinh khi vồ bắt con mồi, chúng có khả năng chạy nước rút tài giỏi với tốc độ lớn. Ngoài ra, mèo còn có sở trường về nhảy cao và leo trèo. Chúng có thể nhảy từ mép đất lên đến độ cao hơn 8 mét. Đôi lúc chúng cũng có những thú vui tao nhã như thích cuộn mình trong vòng tay chủ, thích ngắm sự tĩnh lặng và bình yên của cảnh vật vườn nhà qua khung cửa sổ như một thi nhân đang trầm tư trước khung cảnh hữu tình của tạo hoá. Khác với những loài vật khác, mèo rất thích ngủ và ngủ rất nhiều, chúng xem đây như một cách để giữ năng lượng cho cơ thể.

Trung bình mỗi ngày bạn mèo của chúng ta ngủ từ mười hai tới mười sáu giờ, thường ngủ vào sáng sớm hoặc trưa chiều và thích hoạt động vào buổi tối. Đặc tính của mèo là rất sợ lạnh, bởi vậy chúng ta hãy gặp chúng ở góc bếp hay chui vào chăn ấm những ngày đông. Mỗi buổi sớm chúng thường ngồi trên giàn mướp hoặc trước sân nhà để sưởi nắng. Tính tình của mèo nhiều khi cũng thất thường như con người vậy, khi lười biếng nằm ưu tư, khi lại ham chạy nhảy, bắt mồi. Giống như loài chó, mèo đi trên đầu ngón chân, mèo đi lại không gây ra tiếng ồn và cũng không để lại dấu vết, chân mèo có những móng vuốt rất sắc, không để ý bạn có thể bị cấu và để lại dấu trên mình, vuốt nó được thu lại trong lông và dạ quanh đệm ngón. Nó có tác dụng giúp mèo tự vệ, bám chắc điểm tựa khi leo trèo và là một vũ khí hữu hiệu phục vụ cho việc săn mồi. Mèo có tầm nhìn tốt vào buổi tối, ban ngày con ngươi trong mắt thường co lại và hẹp, vào ban đêm còn ngươi chúng giãn rộng ra vì vậy tầm nhìn tốt hơn. Mắt mèo gồm ba mí và thường có ba màu xanh, vàng, cam là chủ yếu. Khứu giác của mèo cũng rất tốt, gấp mười bốn lần so với con người nên chúng có thể ngửi những mùi mà chúng ta không nhận biết được.

Thức ăn chính của mèo là những loài vật nhỏ như chuột, cóc, nhái… Chúng thường tự đi kiếm mồi cùng với sự phục vụ của chủ nhân và các thành viên trong gia đình. Đặc biệt cá và chuột được coi là món ăn khoái khẩu nhất của chúng. Khả năng kiếm mồi nhanh và chính phục con mồi của chúng khá độc đáo. Thỉnh thoảng, bạn sẽ thấy mèo mang về những món quà bất ngờ như một chú cóc nhỏ, một anh chuột chù hay một bộ xương cá của nhà hàng xóm. Mèo ăn rất từ tốn và nhẹ nhàng như cách ăn của người thiếu nữ khi mới về ra mắt gia đình người thương. Mèo rất coi trọng vệ sinh cơ thể và xem đó như một thói quen hàng ngày, đây cũng là điểm khác biệt của mèo số với những động vật khác. Chúng ưa sạch sẽ, sợ ướt, tự vệ sinh bằng cách lè lưỡi ra tiết nước bọt vào chân và xóa lên toàn bộ cơ thể mình. Trong nước bọt của mèo có chứa enzym làm sạch lông. Cũng bởi vậy mà nhiều người thường bảo mèo dạy cho chúng ta bài học về sự sạch sẽ, đoan trang và tế nhị trong từng hành động, cử chỉ.

Hiện nay, mèo là thú cưng khá phổ biến trong gia đình, đặc biệt là các bạn nhỏ. Mèo còn giúp cho gia đình chống được sự tàn phá của các bác chuột mỗi ngày. Bạn hãy thử tưởng tượng nếu một ngày không có loài vật này thì sẽ như thế nào? Chắc chắn lúc đó loài chuột sẽ hoành hành và gây hại cho con người thật nhiều. Mèo còn là người bạn tâm tình, bầu bạn với con người. Vậy mà vẫn còn đó đây một vài người rất hứng thú với món tiểu hổ, điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn vong của loài vật này. Mỗi người trong chúng ta cần nhận thức được rằng mèo không phải là nguồn thực phẩm và cần bảo vệ chúng.

Mèo – một loại vật nuôi phổ biến đối với con người. Từ lâu, chúng đã trở thành người bạn gắn bó thân thiết trong cuộc sống của chúng ta.

Mèo là một loài động vật có vú, nhỏ bé và ăn thịt. Nguồn gốc của loài mèo được cho là mèo rừng châu Phi. Khoảng 9500 năm trước, mèo nhà đã bắt đầu sống gần gũi với con người. Cho đến ngày hôm nay chúng là một trong những thú cưng của con người.

Chiều dài cơ thể của một con mèo là 25 – 30 cm và cân nặng từ 2,5kg đến 7kg. Thân hình của một chú mèo khá nhỏ, với một chiếc đầu nhỏ và cử động linh hoạt. Mắt mèo rất tinh, có thể nhìn khoảng cách rất xa và phát sáng trong bóng tối. Chúng cũng có đôi tai mèo rất thính. Đa số những chú mèo đều có đôi tai thẳng và vểnh lên cao. Nhờ tính năng động cao của cơ tai mà mèo có thể quay người về một hướng nhưng vểnh tai theo hướng khác. Mũi mèo đen, ươn ướt, rất thính. Chân mèo nhỏ và thon dài, có vuốt và đệm thịt ở phần tiếp xúc với mặt đất giúp đi tốt trên những bề mặt gồ ghề. Da mèo khá dày, nhiều lông. Bộ lông của chúng khá mềm, với màu sắc phổ biến của mèo là trắng, vàng, xám tro hay… Đuôi mèo dài và uyển chuyển, chúng được dùng để xua đuổi ruồi muỗi. Nhưng chức năng chủ yếu của nó là giữ thăng bằng cho mèo trong khi chạy nhảy, leo trèo.

Ngày nay, mèo cũng được phân thành nhiều loại vô cùng đa dạng. Một số loài mèo khá phổ biến được nuôi như mèo Mun, mèo tam thể, mèo mướp, mèo Vàng, mèo Xiêm, có một số loài mèo quý hiếm như: mèo Anh lông ngắn, mèo Anh lông dài, mèo tai cụp… Để kể hết các giống mèo thì không xuể.

Mèo được nuôi trong nhà với điều kiện cơ sở, vật chất, chế độ ăn uống tốt, được kiểm soát, mèo thường sống trung bình khá lâu từ mười bốn đến hai mươi năm. Loài mèo là động vật sinh sản đơn tính, chúng mang thai trong ba tháng và đẻ rất nhiều lứa, mỗi lứa đẻ từ khoảng ba đến bốn con. Mèo con khi được một tháng tuổi đã phải học các động tác săn mồi như: chạy, nhảy, leo trèo, rình và vồ mồi. Thức ăn chính của mèo là những loài vật nhỏ như chuột, cóc, nhái… Đặc biệt cá và chuột được coi là món ăn khoái khẩu nhất của chúng.

Loài mèo thường sống ở những nơi có khí hậu ấm áp, và thường không chịu được lạnh giá. Chúng cũng thường tránh nơi ẩm ướt và ở rất sạch sẽ. Để làm vệ sinh cho cơ thể, nó thường thè lưỡi ra, tiết nước bọt vào chân của nó rồi bôi lên mặt và toàn thân thể.

Advertisement

Ngày nay, mèo đã trở thành một trong những thú cưng phổ biến được con người nuôi. Chúng được chăm sóc rất tận tình, chu đáo. Loài mèo còn được sử dụng để sáng tạo ra những nhân vật đã vô cùng quen thuộc như chú mèo máy Doraemon, Hello Kitty… với con người, đặc biệt là trẻ em. Trong văn hóa dân gian, loài mèo được đưa vào tranh Đông Hồ với bức tranh nổi tiếng “Đám cưới chuột”.

Như vậy, dù thời gian có qua đi, nhưng loài mèo vẫn vô cùng gắn bó trong cuộc sống của con người. Chúng là loài vật nhanh nhẹn và có ích.

Bên cạnh loài chó, thì mèo cũng là một loài vật vô cùng quen thuộc đối với con người. Chúng đã trở thành một vật nuôi trong nhà, được con người yêu quý và chiều chuộng.

Mèo là động vật thuộc lớp thú, có bốn chân. Trên mình phủ một bộ lông dày, mượt mà. Mèo nhà có nguồn gốc từ mèo rừng. Mèo được nuôi đầu tiên ở châu Phi, sau được nuôi ở các nước châu Âu và các nước nước khác. Thời đại phát triển ngày nay thì người ta đã lai tạo nhiều giống mèo mới như: mèo tam thể. mèo lông xù, mèo mướp, mèo mun…

Một chú mèo có thể dài khoảng 25 – 30 cm và nặng từ 2,5kg đến 7kg. Chúng có một chiếc đầu nhỏ, khá tròn, cử động linh hoạt, tùy thuộc theo hướng muốn di chuyển. Mắt mèo cũng có nhiều màu sắc đa dạng như màu vàng, đen, nâu nhưng chủ yếu là màu xanh. Mắt mèo là một bộ phận khá đặc biệt. So với các động vật khác, mèo có tầm nhìn rất tốt vào ban đêm nhưng lại kém đi vào ban ngày. Mắt mèo rất tinh, có thể nhìn khoảng cách rất xa và phát sáng trong bóng tối. Tai mèo rất thính. Đa số những chú mèo đều có đôi tai thẳng và vểnh lên cao. Nhờ tính năng động cao của cơ tai mà mèo có thể quay người về một hướng nhưng vểnh tai theo hướng khác. Đôi tai ấy cũng có khả năng nghe được những âm thanh ở tần số rất xa, thậm chí tốt hơn cả chó mặc dù chiếc tai tam giác chỉ nhỏ bằng đầu ngón cái. Mũi mèo đen, ươn ướt, rất thính. Chân mèo nhỏ và thon dài, có vuốt và đệm thịt ở phần tiếp xúc với mặt đất giúp đi tốt trên những bề mặt gồ ghề. Da mèo khá dày, nhiều lông. Bộ lông của chúng khá mềm, với màu sắc phổ biến của mèo là trắng, vàng, xám tro hay… Đuôi mèo dài và uyển chuyển, chúng được dùng để xua đuổi ruồi muỗi. Nhưng chức năng chủ yếu của nó là giữ thăng bằng cho mèo trong khi chạy nhảy, leo trèo. Những lúc đuổi chuột, chuột chạy vào hang, mèo muốn đuổi theo thì ria mép không được chạm vào cửa hang, còn nếu ria mép chạm vào thì mèo không thể đuổi theo được, vì chiều dài của ria đúng bằng chiều rộng thân. Đặt biệt tai mèo rất thính và mắt mèo rất tinh. Tai mèo có thể nghe mọi cử động của chuột, dù là nhỏ nhất. Mắt mèo có cấu tạo đặc biệt, có thể co giãn, ban ngày mắt mèo co lại, ban đêm mắt mèo giãn ra, có thể nhìn được trong bóng tối. Điều đó giải thích vì sao mèo hay bắt chuột vào ban đêm.

Mèo rất sợ lạnh, nên chúng rất thích ngủ ở những nơi ấm áp, thích cuộn tròn người và vuốt ve bộ lông. Do đó vào mùa đông, mèo hay ngủ cạnh bếp lò, chui vào trong chăn ấm. Vào những ngày nắng, mèo hay nhảy lên mái bếp hoặc nằm ngoài sân để sưởi nắng. Lông mèo rất đặc biệt, khi được chiếu sáng sẽ tổng hợp thành vitamin D, mèo lấy vitamin bằng cách liếm lông, chúng ta hay nhầm tưởng mèo tự làm sạch cho mình. Dưới chân mèo có một đệm thịt dày, dù nhảy trên cao xuống cũng không phát ra tiếng động. Thức ăn chính của mèo là chuột, ngoài ra mèo còn ăn thêm cơm, cá và rau. Chân mèo có móng vuốt đàn hồi, bình thường móng cụp lại, khi tự vệ hay vồ mồi thì móng duỗi ra.

Mèo là loài vật nhanh nhẹn, thông minh và có ích. Ngày nay, chúng đã trở thành một loại vật nuôi gắn bó trong cuộc sống của con người.

Ngôi nhà không chỉ là sự quây quần giữa các thành viên trong gia đình mà đôi khi còn có sự góp mặt của những loài vật nuôi quen thuộc như con chó, con gà, con vịt… Và trong đó không thể không kể đến con mèo.

Mèo cũng thuộc loài động vật có vú. Loài mèo trở nên gần gũi quen thuộc với loài người từ rất sớm, cách đây khoảng chín nghìn năm trăm năm. Mèo cũng có rất nhiều loại, được nhận ra qua đặc trưng về màu lông. Chẳng hạn mèo tam thể là sự phối hợp của ba màu, mèo mướp có lông vàng nhạt, mèo mun có lông màu đen… Thậm chí có những giống mèo có tên tiếng anh với giá thành xa xỉ và đắt đỏ.

Mèo được cấu tạo từ bốn phần: đầu, thân, chân và đuôi. Chúng có hai cái tai hình tam giác vểnh lên. Tai mèo khá thính vì nó có 32 cơ riêng biệt để phát hiện, phân biệt các âm thanh và bởi vậy, tai chúng có thể vểnh ra nhiều hướng khác nhau. Mắt mèo phổ biến nhất với người Việt Nam là màu xanh lá hoặc vàng, nhưng trên thực tế màu mắt của chúng cũng rất đa dạng, đầy ma mị như màu xanh dương, màu cam. Mắt chúng chủ yếu tinh tường vào ban đêm và kém về ban ngày. Những con chuột cũng không thể thoát khỏi loài mèo trong bóng tối. Đặc biệt, nếu con người chỉ có mắt hai mí hay một mí thì ở mèo còn có mi mắt thứ ba. Một bộ phận khác cực kì nhạy cảm ở mèo chính là khứu giác, tinh tường gấp 14 lần so với chúng ta, đánh hơi được những mùi mà con người hay nhiều loài động vật khác không thể gửi thấy được. Tuy nhiên, thính giác của mèo lại không quá vượt trội, cũng ở mức thấp cùng con người. Nó có lớp lông dày và mượt. Mèo có bốn chân thuận tiện trong việc giữ thăng bằng. Mèo cũng chỉ di chuyển trên đầu ngón chân. Ở đầu ngón còn có các móng vuốt sắc nhọn để săn mồi.

Mèo cũng là một trong những loài động vật chạy rất nhanh nhờ cơ thể bé nhỏ và dẻo dai của nó. Mèo còn có tập tính thích trèo cao. Điều này đã được phản ánh trong bài đồng dao quen thuộc của trẻ thơ “Con mèo mà trèo cây cau/ Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà”. Chúng cũng thích nằm ườn ra giữa sân để phơi nắng, đôi mắt mơ màng như một cách tận hưởng cuộc sống. Thức ăn yêu thích của nó là những con cá và chuột. Mèo là kẻ thù và kẻ săn mồi đáng sợ nhất của những chú chuột nhỏ bé. Loài mèo nhà cũng rất thích được vuốt ve bộ lông mềm mại của nó bởi vậy nó thường chui vào lòng người chủ để làm nũng.

Những chú mèo thường không quá nặng, dao động từ 2.5 đến 7 kg nhưng cũng có trường hợp ngoại lệ lên tới 12kg vì được nuôi dưỡng và ăn ngủ dư dả. Một con mèo nếu quá to béo cũng không tốt lắm vì dễ mắc bệnh. Tuổi thọ của loài mèo có thể lên tới hai mươi năm và sẽ càng sống lâu hơn nếu ít để chúng nhởn nhơ bên ngoài, tránh các thương tích. Đến thời kì sinh sản, những con mèo cái thường trốn nhà đi nhiều ngày để tìm mèo đực và tìm những nơi khuất lấp để để. Một lứa mèo có thể được một con cho đến vài ba con. Màu lông của mèo con không nhất thiết theo mẹ mà có thể giống bố hoặc là sự pha trộn của cả hai.

Người ta nuôi mèo thường là để nó canh giữ bồ thóc cho ngôi nhà trước lũ chuột tàn phá. Nhưng lâu dần chúng cũng trở thành một người bạn, một thành viên trong gia đình được chăm sóc tận tình và chu đáo.

Mèo là một loài động vật phổ biến và dễ nuôi dưỡng. Nhà nào có một chú mèo phần nào cũng trở nên vui nhộn hơn.

Trong các con vật, mèo là một trong những loài gần gũi với con người nhất, được nuôi trong nhà và được mọi người yêu quý. Vừa đáng yêu vừa gần gũi, lại rất có ích trong gia đình, loài mèo với con người như một người bạn.

Loài mèo được cho rằng đã xuất hiện cách đây gần 9500 năm, các nhà khoa học Ai Cập cho biết họ đã thấy hình ảnh mèo trên các bức vẽ cổ. Mèo là loài vật thuộc lớp thú, có bốn chân, lớp lông dày và có nhiều màu khác nhau, có con màu đen tuyền, có con màu trắng bạch, có con màu tam thể,… rất đa dạng. Giống mèo cũng có nhiều loại như mèo ta thuần chủng hay mèo lai anh,… Mèo là một loài động vật nhỏ và nhanh nhẹn. Hai cái tai lớn, mỗi tai đều có 32 cơ riêng để điều khiển hướng nghe, vì vậy, mèo rất thính, có thể nghe âm thanh từ rất xa. Hai mắt mèo tròn và to, hình hạt táo, lúc nào cũng long lanh, mắt mèo có nhiều màu, vàng, xanh lam, xanh ngọc,… ban đêm mắt mèo rất sáng, giúp nó có thể nhìn mọi vật rõ ràng. Mũi mèo màu hồng, thường hơi ướt và đặc biệt nhận biết mùi rất tinh. Mèo có miệng nhỏ với những ria mép dài và mỏng mọc hai bên. Lông mèo dày phủ kín toàn thân, mèo Anh sẽ có lông dài và dày hơn mèo ta. Chân mèo có móng vuốt dài và lớp đệm thịt dày, là vũ khí lợi hại khi chúng đối mặt với kẻ thù. Đuôi mèo dài, hay ngoe nguẩy, chiếc đuôi giúp mèo có thể giữ thăng bằng tốt hơn. Mèo là một loài động vật ưa ấm và sợ lạnh, chúng cũng rất thích được vuốt ve và gần gũi với con người. Những ngày trời nắng, mèo thường ra chỗ có nắng nằm để sưởi ấm cơ thể, mèo cũng rất thích liếm lên bộ lông của mình.

Mèo được nuôi trong các gia đình với lí do hầu hết là để bắt chuột, đây là tập tính rất tốt của loài mèo, giúp con người đối phó với loài chuột đầy tác hại. Mèo chạy rất nhanh nên có thể đuổi theo và dùng bộ móng vuốt sắc nhọn của mình để xử lí chuột. Nhờ có mèo, những kho thóc của bà con ta mới được bảo vệ. Ngoài ra, do nhu cầu và mức sống ngày càng cao, mèo cũng được nuôi với mục đích làm cảnh, hoặc làm thú cưng vui đùa cùng con người, những chú mèo được đối xử rất tốt khi được làm thú cưng của người chủ, thường chúng sẽ là những chú mèo rất đẹp. Nhìn chung chăm sóc mèo cũng khá đơn giản, tuy nhiên, cần cho mèo ăn uống hợp lí cũng như hiểu biết về những bệnh mà mèo có thể gặp phải, từ đó ngăn ngừa kịp thời. Mèo là loài động vật khá tự chủ, chúng hoàn toàn có thể tự chơi một mình nhưng chúng ta khi nuôi mèo cũng nên quan tâm chăm sóc nhiều đến chúng. Ngày nay, có rất nhiều loại mèo đa dạng với các cách phối giống khác nhau. Chúng đều giũ được tập tính bắt chuột và những đặc trưng của loài mình.

Mèo từ xưa đến nay vẫn được đất nhiều người yêu quý và chọn nuôi, tùy sở thích mà mỗi người sẽ chọn giống mèo cũng như màu lông khác nhau. Dù thế nào, đây vẫn là một loài động vật rất đáng yêu và có ích cho con người.

Tập Làm Văn Lớp 5: Dàn Ý Tả Dòng Sông (7 Mẫu) Dàn Ý Tả Con Sông Lớp 5

1. Mở bài: Giới thiệu về dòng sông quê em: Quê em rất đỗi thân thương và bình dị. Em thích nhất là ra bờ sông để ngắm nhìn dòng nước chảy rì rào, để ngâm chân mình dưới dòng nước mát lạnh. Con sông quê em rất đỗi thân thương, em sẽ giới thiệu con sông quê em cho mọi người cùng biết.

2. Thân bài

a. Tả khái quát

Dòng sông dài ngoằn ngoèo

Dòng sông có nước trong veo, chảy rì rào như một điệu nhạc

Dòng sông nằm cạnh cánh đồng bao la

Hai bên dòng sông có các cây cỏ um tùm

b. Tả chi tiết

– Buổi sáng:

Mặt trời mọc hòa mình vào dòng sông

Dòng sông nhộn nhịp với tàu thuyền đánh cá

Tấp nập người qua sông

Rồi người làm việc trên sông

Trẻ con đi cào hến, bắt cua trên sông

– Buổi trưa

Nắng trải dài trên sông

Dòng sông nằm phẳng lặng

Những đứa trẻ nghịch ngợm không ngủ trưa ra sông nghịch nước

Những người già ra sông tìm bóng mát nghỉ trưa

Các mẹ thì tất bật giặt quần áo

– Buổi chiều

Dòng sông lấp lánh ánh vàng của những vệt nắng cuối ngày

Bọn trẻ nhỏ nô đùa quanh sông

Các chú chèo thuyền đi thả lờ để đặt cá

Màn đêm bắt đầu buông xuống

– Buổi tối

Dòng sông chìm trong bóng tối

Những người đi thả cá, bắt tôm

Những ánh đèn mập mờ trên sông

Rồi dòng sông chìm trong giấc ngủ êm đềm

– Lợi ích của dòng sông

Cung cấp nước sinh hoạt

Mang lại lương thực thực phẩm

Điều hòa nguồn nước

3. Kết bài: Nêu cảm nghĩ của em về dòng sông: Con sông đã cùng em lớn lên, con sông như một người bạn thời cắp sách của em. Con sông mang lại nhiều lợi ích cho gia đình em và những người trong làng em. Em rất yêu con sông quê em.

a. Mở bài

Dẫn dắt, giới thiệu về dòng sông mà em muốn miêu tả.

Gợi ý: Quê hương em là một vùng đất tươi đẹp. Nơi đây có cánh đồng lúa rộng mênh mông bát ngát, có bờ đê thoai thoải mà mỗi chiều về lại nô nức lũ trẻ thả diều, có con đường làng gập ghềnh đất đỏ… Nhưng đi xa, em nhớ nhất vẫn là con sông êm đềm chảy phía cuối làng, nơi níu giữ những kỉ niệm đẹp nhất của tuổi thơ em.

b. Thân bài

– Miêu tả chung về dòng sông:

Dòng sông đó nằm ở vị trí nào?

Đó là một dòng sông tự nhiên mà có hay là do người dân đào nên?

Con sông có tên gọi là gì? Tên gọi đó do ai đặt? Cách đặt tên đó gắn liền với quan niệm hay một câu chuyện nào không?

Dòng sông đó bắt nguồn từ đâu? Chảy qua những nơi nào và đổ về đâu?

Chiều dài, bề rộng, chiều sâu của dòng sông khoảng bao nhiêu? (nếu không thể nói số đo chính xác, thì có thể so sánh với những sự vật khác để xác định kích thước)

– Miêu tả chi tiết dòng sông:

Nước sông ở đây có màu gì? (thay đổi như thế nào theo mùa)

Nước sông luôn đầy ắp quanh năm hay có sự nâng lên, giảm xuống tùy vào mùa mưa, mùa khô?

Dưới đáy sông là gì? (lớp bùn non, lớp cát sỏi…)

Thế giới sinh vật dưới sông có gì đặc biệt? (tôm, cua, cá, các loại rong, bèo…)

Hai bên bờ sông có được xây dựng bờ kè, cầu thang, cầu gỗ để tiện lên xuống dòng sông không?

– Hoạt động của con người với dòng sông:

Những người kiếm sống nhờ dòng sông (đánh bắt tôm cá, thả bè nuôi cá trên sông, tàu thuyền chở đồ trên mặt sông…)

Mọi người giặt giũ, lấy nước… ở hai bên bờ sông

Lũ trẻ con xuống tắm, bơi lội ở khúc sông cạn vào mùa hè nóng bức

Những quán nước, chòi nghỉ chân dựng cạnh bờ sông cho mát mẻ

Các bến tàu thuyền ở các khúc sông tấp nập người qua sông…

c. Kết bài

Tình cảm của em dành cho con sông quê hương.

Ý nghĩa của con sông ấy đối với em và đối với quê hương em.

Gợi ý: Dòng sông quê hương ấy đã bồi đắp lên tuổi thơ tuyệt vời của em, và của biết bao đứa trẻ khác ở vùng nông thôn ấy. Nay, dù đã lên thành phố cùng bố mẹ suốt gần năm năm rồi, mà em vẫn còn nhớ mãi hình ảnh con sông đầy ăm ắp ấy; còn nhớ mãi cảm giác ngụp lặn dưới dòng nước mát ấy. Em mong rằng, dù thời gian trôi qua, quê hương em đang từng ngày thay đổi, thì dòng sông quê hương ấy vẫn sẽ mãi hiền hòa và bao dung với người dân nơi đây như thuở nào.

1. Mở bài

Giới thiệu bao quát:

Con sông Sài Gòn quê em hiền hòa dang tay ôm thành phố vào lòng.

Con sông này gắn bó với tuổi thơ em.

2. Thân bài

* Buổi sớm:

Mặt sông phẳng lặng, thấp thoáng trong sương.

Bãi mía bên kia sông xanh mờ mờ.

Dãy thuyền chài neo sát bờ le lói ánh lửa nấu cơm sớm.

Tiếng người í ới, xôn xao chỗ bến đò ngang.

Tiếng mái chèo khua nước lao xao.

Nắng lên, mặt nước lấp lánh, dòng sông xanh biếc mang phù sa cuồn cuộn trôi xuôi theo dòng nước.

Bầu trời xanh trong in bóng xuống mặt hồ.

Khi có gió nhẹ thổi qua, mặt nước sông nhấp nhô gợn sóng.

Hoạt động trên bến đò tấp nập, nhộn nhịp.

* Buổi chiều:

Người lớn, trẻ con ùa xuống sông tắm mát.

Dòng sông như dang rộng vòng tay ôm tất cả vào lòng.

Mặt trời chiều tỏa những tia nắng vàng nhè nhẹ xuống dòng sông.

Chim chóc nô đùa, vỗ cánh hót vang.

Trong ánh hoàng hôn, cảnh sông nước càng thêm thơ mộng.

3. Kết bài

Nêu cảm nghĩ của em:

Dòng sông gắn bó thân thiết với tuổi thơ đầy kỉ niệm.

Dòng sông góp phần làm nên vẻ đẹp của quê hương.

I. Mở bài:

Dòng sông em định tả có tên là gì? ở đâu? (Sông Hồng, thị xã Sơn Tây.)

Tại sao em lại chọn tả dòng sông ấy? (Sông Hồng gắn bó với tuổi thơ em.)

II. Thân bài:

* Buổi sớm:

Mặt sông phẳng lặng, thấp thoáng trong sương.

Bãi mía bờ dâu bên kia sông xanh mờ mờ.

Dãy thuyền chài neo sát bờ le lói ánh lửa nấu cơm sớm.

Tiếng người í ới, xôn xao chỗ bến đò ngang; tiếng mái chèo khua nước…

Nắng lên, mặt nước lấp lánh, đỏ đậm phù sa, cuồn cuộn trôi xuôi.

Hoạt động trên bến cảng tấp nập, nhộn nhịp…

* Buổi chiều:

Người lớn, trẻ con xuống sông tắm mát.

Dòng sông như giang rộng vòng tay ôm tất cả vào lòng.

Trong ánh hoàng hôn, cảnh sông nước càng thêm thơ mộng.

III. Kết bài:

Dòng sông gắn bó thân thiết với tuổi thơ đầy kỉ niệm.

Dòng sông góp phần làm nên vẻ đẹp của quê hương.

I. Mở bài:

Giới thiệu sông Hương xứ Huế.

Mỗi dòng sông sẽ mang một dáng vẻ khác nhau, trong rất nhiều dòng sông trên khắp cả nước, em thích nhất là dòng sông Hương xứ Huế.

II. Thân bài:

a. Tả bao quát dòng sông Hương:

Nhìn từ trên cao sông Hương như một tấm lụa đào mềm mại chảy trong lòng thành phố Huế mộng mơ.

Không biết rõ từ bao giờ đã có con sông này, em chỉ được nghe kể lại nó đã sống cùng lịch sử dân tộc hàng thế kỉ từ thời vua Hùng đến khi đất nước trong thời bình.

b. Tả chi tiết:

Buổi sáng khi ánh nắng tỏa xuống dòng sông như dát bạc ánh lên sắc chúng tôi thoảng có làn gió nhẹ thoảng qua , những con sóng lăn tăn nối tiếp nhau chạy xa tít tắt. Trưa về dòng sông lấp lánh ánh vàng. Trên sông lúc này thật nhộn nhịp. Những chiếc thuyền giăng buồm thả lưới bắt cá. Hai bên bờ sông là những hàng tre xanh ngắt và màu cỏ lá xanh biếc. Đêm về sông khoác lên mình màu đen huyền bí. Trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn xưa cũ của đất kinh kì. Trong khoảnh khắc ấy, tiếng đàn cất lên làm khung cảnh thêm thơ mộng. Nền âm nhạc cổ điển Huế – nhã nhạc cung đình Huế như được sinh thành từ dòng sông này.

Giữa dòng sông là chiếc cầu trắng nối hai bên bờ như vầng trăng non. Trên sông có bến đò hằng ngày đưa khách qua sông. Con sông ôm chúng em vào lòng như người mẹ đối với đàn con. Chúng em vui đùa hai bên dòng sông, các bà các mẹ tất bật mang thành quả của các bác các chú cả một ngày là mẻ cá đầy với nét mặt rạng rỡ.

Dòng sông cho em rất nhiều kỉ niệm sâu sắc. Lần đó khi em học lớp ba, em được bố em cho ra sông tập bơi. Lúc đầu được bố hướng dẫn và tập thử em vô cùng thích thú. Nhưng khi tự tập không cần phao bơi em hơi run chân tay bắt đầu co lại, em sợ cứ vùng vằng trên nước, em la lên gọi bố. Thật may bố đã tóm được lấy tay em . Cho đến tận bây giờ mỗi lần nhắc lại kỉ niệm ấy em lại thấy thích thú và cũng từ ấy em đã quyết tâm học bơi và đã biết bơi.

III. Kết bài:

Nêu tình cảm của em với dòng sông.

Em yêu dòng sông Hương như người mẹ hiền của em. Mỗi khi đi xa em vẫn nhớ dòng sông này, nhớ bản trường ca của rừng già hùng vĩ.

1. Mở bài

Giới thiệu về dòng sông Hàn ở Đà Nẵng.

2. Thân bài

– Tả bao quát dòng sông:

– Tả dòng sông theo trình tự thời gian, thời điểm trong ngày:

Bình minh, buổi sáng dòng sông hiền hòa, êm đềm, ít tàu thuyền qua lại

Buổi chiều, hoàng hôn dòng sông nhộn nhịp tàu thuyền ra vào, bờ sông nhiều người đi hóng gió, tập thể dục.

Buổi tối: dòng sông Hàn lung linh huyền ảo và thơ mộng dưới những ánh đèn điện.

– Tả dòng sông Hàn theo trình tự không gian:

Dòng sông nhìn từ xa uốn lượn quanh co, về gần lại rộng mênh mông, sóng nước dập dìu.

Advertisement

Dòng sông nhìn từ trên cao xuống như một dải lụa mềm.

3. Kết bài

Cảm nhận của em về dòng sông Hàn.

1. Mở bài

Dòng sông em định tả ở đâu, tên gì? (Sông Dinh, thị xã Ninh Hòa).

2. Thân bài

* Tả cảnh bao quát: (giới thiệu sơ lược).

Sông Dinh chảy qua thị xã Ninh Hoà. Chính từ bãi sông màu mỡ này mà huyện Ninh Hoà xưa kia phát triển thành thị xã ngày nay.

Toàn cảnh hai bên bờ sông là nhà của cư dân các xã và thị xã. Hai bên bờ lô nhô những rặng dừa xanh mát.

* Tả cảnh chi tiết:

Sáng sớm: nước sông trong trẻo, có thể nhìn thấy hòn cuội ở ven bờ.

Trưa: nước sông có màu đục nhờ nhờ, một vài thuyền câu cá giăng lưới (nông dân bắt cá để cải thiện bữa ăn). Nước triều cao, mặt sông nhấp nháy ánh mặt trời.

Chiều tà: mặt nước sông nhuộm màu vàng đất pha lẫn ánh vàng le lói của mặt trời sắp lặn.

Hai bên bờ sông: nhà cửa lô nhô, thỉnh thoảng có một bến nước để bà con lấy nước, một vài chị phụ nữ giặt quần áo, một hai chiếc xe bò kéo lấy cát ở bãi sông.

Chiều tắt nắng, nước triều rút mạnh, đàn cò từ đâu bay đến, chúng đậu ở đồi cát, đi lững thững bắt tép tôm.

Sông đẹp nhất vào độ trưa, khi ánh nắng làm đẹp rặng dừa hai bên bờ và dòng sông óng ánh như có bạc.

* Nêu ích lợi của con sông:

Con sông đem lại khí hậu mát mẻ cho quê em.

Con sông là nguồn nước để tưới cho đồng ruộng, nuôi trồng thuỷ sản vùng nước ngọt.

3. Kết luận:

Nêu tình cảm, suy nghĩ của em về dòng sông quê hương.

Em làm gì để giữ gìn cho con sông mãi đẹp và trong lành? (Bảo vệ môi trường sạch đẹp, tuyên truyền để người dân chung sức giữ gìn bãi sông, nước được sạch.)

Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 10: Thuyết Minh Đoạn 1 Bài Phú Sông Bạch Đằng Dàn Ý &Amp; 2 Bài Văn Mẫu Lớp 10 trên website Hgpc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!