Bạn đang xem bài viết 10 Bài Văn Chứng Minh Rằng Cần Phải Chọn Sách Mà Đọc (Lớp 7) Hay Nhất được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Hgpc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Bài văn chứng minh rằng cần phải chọn sách mà đọc số 5Người ta thường nói, sách là kho tàng tri thức của nhân loại. Có một câu danh ngôn về việc đọc sách như sau:“Gặp được một quyển sách hay nên mua liền dù đọc được hay không đọc được, vì sớm muộn gì cũng cần đến nó”.
Sách là nguồn cung cấp tri thức khổng lồ mà ta sẽ khó có thể khai thác hết. Có rất nhiều các loại sách: sách khoa học, sách văn học, sách kinh doanh,..Mỗi loại sách đó sẽ cho ta những kiến thức và hiểu biết khác nhau và phù hợp với từng đối tượng khác nhau. Doanh nhân sẽ tìm sách kinh doanh để đọc. Bác sĩ sẽ đọc sách về ngành y. Còn học sinh chúng ta nên đọc những loại sách khoa học, văn học và lịch sử để bổ sung kiến thức về các môn học. Trên thị trường hiện nay có rất nhiều các loại sách có những nội dung không văn minh. Vậy nên, việc chọn sách để đọc là vô cùng quan trọng, bởi những kiến thức trong sách sẽ ảnh hưởng đến nhận thức và suy nghĩ của chúng ta.
Việc đọc sách không chỉ giúp chúng ta mở rộng hiểu biết về chuyên môn mà sách còn giúp chúng ta hoàn thiện bản thân và nuôi dưỡng tâm hồn mỗi người. Sách dạy ta đạo làm người, cách đối nhân xử thế với cha mẹ và những người xung quanh. Sách dạy ta phải sống lương thiện và sống có ích. Ngoài ra sách còn dạy ta biết yêu thương bản thân mình và yêu thương nhân loại. Sách giúp ta biết khóc khi gặp những cảnh ngộ đáng thương bằng cách đi theo từng diễn biến tâm trạng của những nhân vật trong chuyện. Sách khiến ta biết cười để thấy tâm hồn mình rộng mở và chào đón những điều tốt đẹp sẽ đến với ta.
Để tiếp nhận được những kiến thức trong sách ta phải có phương pháp đọc sách đúng đắn. Đầu tiên, bạn nên đọc lướt để biết được nội dung chính của cuốn sách. Sau đó, bạn đọc kỹ từng câu từng từ để hiểu được một cách kỹ càng của từng chi tiết. Chúng ta không chỉ đọc một lần mà phải đọc đi đọc lại nhiều lần, có như vậy ta mới hiểu được nội dung cuốn sách một cách thấu đáo. Khi đọc sách, bạn nên tập trung chứ không nên vừa làm việc khác vừa đọc sách, vì như vậy bạn sẽ có cái nhìn không tổng thể và khó có thể hiểu được từng nội dung. Nói cách khác, chúng ta cần có cái tâm khi đọc sách, khi đó ta mới có thể hiểu được tâm tư, nguyện vọng mà các tác giả muốn truyền đạt thông qua từng cuốn sách.
Mỗi ngày, bạn nên dành cho mình ít nhất 30 phút để đọc sách. Bạn sẽ thấy có rất nhiều điều thú vị và còn rất nhiều thứ chúng ta phải học. Sách sẽ dạy chúng ta tất cả những gì chúng ta muốn học. Hãy chịu khó đọc sách để hoàn thiện kiến thức và kỹ năng cũng như nuôi dưỡng tâm hồn của chính chúng ta. Chỉ với 30 phút mỗi ngày, dần dần bạn sẽ thấy mình biết thêm rất nhiều thứ và học được rất nhiều điều. Nếu không đọc sách, bạn sẽ không thể hiểu được ông cha ta đã sống và đã hy sinh như thế nào? Bạn cũng sẽ không thể biết được những người nổi tiếng họ thành công bằng cách nào? Và làm thế nào để bạn có thể được như họ?.
Thật đáng tiếc cho những ai không hiểu được tác dụng của việc đọc sách. Nếu không đọc sách, bạn sẽ trở thành người lạc hậu bởi sự hiểu biết của bạn bị hạn hẹp và vì thế bạn sẽ không thể thành công.
Bài văn chứng minh rằng cần phải chọn sách mà đọc số 9Bài văn chứng minh rằng cần phải chọn sách mà đọc số 5
Sách có một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống con người nên đọc sách là thói quen tốt cần duy trì và phát huy. Nhưng có phải sách nào cũng nên đọc không? Thực tế cho thấy là việc đọc sách cũng cần có sự lựa chọn kĩ càng.
Đọc sách là để bồi dưỡng và nâng cao trình độ của bản thân. Đọc sách cũng là để bồi dưỡng và vun đắp những tình cảm tốt đẹp của con người. Nhưng những trí thức và tình cảm ấy cần phải có sự phù hợp với lứa tuổi. Chính vì vậy, chọn sách cũng như chọn những kiến thức được thu nạp. Khi còn học cấp một, chúng em còn nhỏ nên việc học toán bắt đầu từ những con số nhỏ trong phạm vi hàng nghìn, từ những phép tính cộng trừ nhân chia hai, ba chữ số. Việc học văn cũng bắt đầu từ những câu chuyện kể ngây ngô, những bài tiêu vụng về…
Trong chương trình cấp hai, mức độ tư duy của chúng em đã cao hơn nên có thể học đến những phép nhân chia đa thức phức tạp, viết những bài văn dài đòi hỏi có sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế. Vì vậy, việc lựa chọn sách đọc phải hợp với lứa tuổi cũng như lựa chọn nội dung học phải phù hợp nhận thực. Cấp một, cấp hai có thể đọc “Những câu chuyện vui về Hóa học / Văn học/ Toán học….”, truyện cổ tích, đọc truyện Harry Potter… nhưng không nên đọc những truyện tâm lí tình cảm của người lớn.
Đọc những cuốn sách không phù hợp với lứa tuổi, trình độ có thể tạo ra “hiệu ứng ngược” trong việc đọc sách. Có nghĩa là khiến người đọc sợ đọc hơn hoặc nảy sinh những tình cảm, suy nghĩ tiêu cực. Chẳng hạn, nếu một học sinh học lực bình thường mà đã chọn sách nâng cao thì em sẽ thấy quá khó và sợ không dám học nữa. Hoặc mới lứa tuổi cấp hai đã đọc những cuốn tiểu thuyết tình cảm thì dễ yêu trước tuổi, không tập trung vào việc học tập được.
Mặt khác, đọc sách cũng cần có chọn lọc bởi ngày nay, có rất nhiều loại sách có nội dung không lành mạnh trôi nổi trên thị trường, nếu không chọn lọc ta rất dễ bị “nhiễm độc”. Đó là những cuốn sách mang nội dung phản động, kích động lôi kéo tham gia các tổ chức, đảng phái, tôn giáo chính trị không lành mạnh. Đó là những cuốn sách “đen” mang nội dung đồi trụy xấu xa. Vậy là, bên cạnh những loại sách tốt có tác dụng tích cực đối với việc phát triển con người thì lại có những loại sách hạn chế sự phát triển ấy. Đối với loại sách này ta cần lên án, tố cáo và thiêu hủy.
Sách đọc không đơn giản là một vật dụng bình thường, đó còn là một người thầy, một người bạn thân thiết. Trong cuộc sống, ta phải chọn thầy mà học, chọn bạn mà chơi vậy nên cũng cần chọn sách mà đọc.
Nhưng chọn sách không phải là việc nói thì có thể làm được, bởi lứa tuổi của các em thường không muốn theo bất kỳ khuôn khổ nào. Chính vì vậy, cha mẹ và nhà trường nên kết hợp để các em luôn cảm thấy thoải mái để có thể tiếp thu kiến thức một cách tốt nhất.
Bài văn chứng minh rằng cần phải chọn sách mà đọc số 9
Bài văn chứng minh rằng cần phải chọn sách mà đọc số 1Bài văn chứng minh rằng cần phải chọn sách mà đọc số 9
Đọc sách là để bồi dưỡng và nâng cao trình độ của bản thân. Đọc sách cũng là để bồi dưỡng và vun đắp những tình cảm tốt đẹp của con người. Nhưng những trí thức và tình cảm ấy cần phải có sự phù hợp với lứa tuổi. Khi còn học cấp một, chúng em còn nhỏ nên việc học toán bắt đầu từ những con số nhỏ trong phạm vi hàng nghìn, từ những phép tính cộng trừ nhân chia hai, ba chữ số. Việc học văn cũng bắt đầu từ những câu chuyện kể ngây ngô, những bài tiêu vụng về…
Trong chương trình cấp hai, mức độ tư duy của chúng em đã cao hơn nên có thể học đến những phép nhân chia đa thức phức tạp, viết những bài văn dài đòi hỏi có sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế. Vì vậy, việc lựa chọn sách đọc phải hợp với lứa tuổi cũng như lựa chọn nội dung học phải phù hợp nhận thức. Cấp một, cấp hai có thể đọc “Những câu chuyện vui về Hóa học / Văn học / Toán học….”, truyện cổ tích, đọc truyện Harry Potter… nhưng không nên đọc những truyện tâm lí tình cảm của người lớn. Đọc những cuốn sách không phù hợp với lứa tuổi, trình độ có thể tạo ra “hiệu ứng ngược” trong việc đọc sách. Có nghĩa là khiến người đọc sợ đọc hơn hoặc nảy sinh những tình cảm, suy nghĩ tiêu cực.
Chẳng hạn, nếu một học sinh học lực bình thường mà đã phải đọc những cuốn sách nâng cao thì em sẽ thấy quá khó và sợ không dám học nữa. Hoặc mới lứa tuổi cấp hai đã đọc những cuốn tiểu thuyết tình cảm thì dễ yêu trước tuổi, không tập trung vào việc học tập được.
Bài văn chứng minh rằng cần phải chọn sách mà đọc số 4Bài văn chứng minh rằng cần phải chọn sách mà đọc số 1
Sách đóng một vai trò vô cùng quan trọng và không thể thay thế trong cuộc sống của chúng ta. Sách là thầy mà cũng là bạn. Nhờ có sách, chúng ta có thêm hiểu biết về mọi lĩnh vực trong đời sống. Thế nhưng, không phải loại sách nào cũng phù hợp với bản thân mỗi người. Vì thế, chúng ta phải là biết chọn sách mà đọc.
Sách lưu trữ nguồn tri thức khổng lồ mà ông cha ta đã tích lũy qua hàng nghìn năm lịch sử. Sách trải dài trên mọi lĩnh vực: văn học, lịch sử, địa lí, khoa học đời sống, kĩ năng… Thế nhưng, đọc loại sách nào lại phụ thuộc rất nhiều vào sở thích, thói quen cũng như trình độ nhận thức của mỗi người.
Đối với một đứa trẻ, hẳn chúng sẽ chọn những cuốn truyện cổ tích về bà tiên, hoàng tử, công chúa hay những cuốn truyện tranh sặc sỡ nhiều màu sắc. Những câu chuyện ấy sẽ kích thích trí tò mò và tưởng tượng của trẻ. Truyện cổ tích lại thường có những yếu tố thần kì và kết cục có hậu, vì vậy, nó phù hợp với sự hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng của trẻ thơ. Những cuốn sách về động vật, cây cối thì cho trẻ thêm hiểu biết về thế giới tự nhiên, giúp trẻ khám phá đời sống.
Đối với những người trẻ tuổi hay học sinh, họ lại càng cần nhiều loại sách phong phú trên mọi lĩnh vực để có thêm hiểu biết về đời sống. Sách địa lý giúp họ đi du lịch vòng quanh thế giới, đến những vùng đất xa xôi cách nửa vòng Trái Đất để hiểu thêm về văn hóa, phong tục tập quán của các dân tộc trên thế giới. Sách lịch sử là cỗ máy thời gian giúp họ trở về quá khứ, tìm hiểu về những thời đại hào hùng vàng son của dân tộc, chứng kiến những trận chiến oanh liệt đã được lưu vào sử sách. Sách văn học làm phong phú thêm tâm hồn, gieo những tình cảm tốt đẹp, dạy cách yêu thương, đồng cảm, sẻ chia với mọi người. Sách kỹ năng cung cấp cho người trẻ mọi kỹ năng cần thiết để có thể tự tin tiến bước vào cuộc đời, đáp ứng những nhu cầu của xã hội. Bên cạnh sách thường thức, sách phổ thông, họ còn cần sách chuyên ngành để nắm rõ, hiểu sâu về một lĩnh vực nhất định.
Đối với người trưởng thành hay người già, sách lại là người bạn tâm tình gần gũi giúp họ giải tỏa căng thẳng khỏi những bộn bề, phiền muộn trong cuộc sống. Khi ấy, họ sẽ tìm đến những cuốn sách kinh điển, những cuốn mang nhiều tính triết lý về cuộc đời hoặc những cuốn về nghệ thuật sống đẹp. Đọc sách đối với họ không chỉ để mở mang kiến thức mà còn là thú vui trong những giờ nhàn nhã.
Mặt khác, thị trường sách hiện nay vô cùng phong phú để đáp ứng những thị hiếu khác nhau của mọi người. Vì vậy, chúng ta càng cần phải đọc sách có chọn lọc. Bên cạnh những cuốn sách có nội dung bổ ích, vẫn còn những cuốn chứa nội dung không lành mạnh, phản cảm, đồi trụy. Những cuốn sách ấy sẽ làm hoen ố tâm hồn chúng ta, gieo vào lòng người những cảm xúc, suy nghĩ tiêu cực. Loại sách đó cần phải được loại bỏ vì sự tiến bộ của con người và xã hội.
Bài văn chứng minh rằng cần phải chọn sách mà đọc số 2Bài văn chứng minh rằng cần phải chọn sách mà đọc số 4
“Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người”. Sách có giá trị vô cùng quan trọng trong cuộc sống của chúng ta. Không ai có thể thành công mà không bao giờ đọc sách. Nhưng muốn thành công thực sự thì cần phải chọn sách mà đọc.
Sách là gì? Sách chính là kho tàng chứa đựng những hiểu biết của nhân loại, được con người khám phá, tích lũy qua quá trình lịch sử lâu dài. Sách đem đến cho con người nhiều tác dụng khác nhau, không hề bị giới hạn không gian, thời gian. Sách cung cấp cho người đọc những hiểu biết mới mẻ về thế giới xung quanh, về vũ trụ bao la, về những miền đất xa xôi, về những vì sao không thể chạm tới. Ngày nay, sách còn giáo dục con người ta đạo đức, lối sống, kỹ năng sống rất bổ ích. Nhưng mỗi người cần biết chọn sách mà đọc.
Vì sao lại phải cần biết chọn sách mà đọc? Trước tiên, trên thế giới có rất nhiều đất nước, dân tộc khác nhau, loài người cũng trải qua quá trình lịch sử rất dài lâu, lượng sách có được là vô cùng vô tận. Sách có hàng tỷ hàng nghìn loại khác nhau, không phải loại nào cũng tốt, cũng hiệu quả và phù hợp. Nếu chỉ chọn sách trên tiêu chí cuốn sách đó được nhiều người đọc thì sẽ dẫn đến hậu quả khó lường. Cuốn sách này có thể phù hợp với tư duy của người này nhưng chưa chắc đã phù hợp với người kia.
Lấy ví dụ trong thực tế, một đứa trẻ mẫu giáo không thể đọc hiểu được sách của học sinh tiểu học. Học sinh tiểu học cũng phải học từ cơ bản cộng trừ nhân chia chứ không thể học sách giáo khoa với những bài toán cấp hai hóc búa. Khi còn bé, đọc sách thiếu nhi, đọc những câu chuyện cổ tích, truyện cười sẽ giúp trẻ phát triển nhân cách, tính cách. Nếu đưa những cuốn sách văn học kinh điển, sách khoa học vật lý của những nhà khao học vĩ đại, trẻ không thể tiếp thu, thậm chí còn gây hoang mang, mông lung cho trẻ.
Bên cạnh đó, nếu không biết chọn sách, người đọc dễ rơi vào tình trạng không kiên quyết, quyển nào cũng muốn đọc, sau cùng sẽ dẫn đến rối loạn khi tiếp nhận quá nhiều kiến thức từ các cuốn sách khác nhau. Như nhiều học sinh ôn thi hiện nay, không chọn lựa kỹ càng mà nghe người khác nói tốt nói hay sẽ mua ngay. Dần dần mới phát hiện ra cuốn sách đó không có tác dụng cho mình. Rất nhiều học sinh sử dụng sách văn mẫu, phụ thuộc vào đó và dần mất đi phong cách, tư duy của riêng mình. Đó là những hậu quả điển hình của việc không chọn sách.
Nguy hiểm hơn, hiện nay có rất nhiều loại sách không phù hợp văn hóa, lưu truyền những nội dung không lành mạnh. Nếu không biết chọn lựa, bản thân người đọc rất dễ chọn phải những loại sách như thế và tiếp nhận ảnh hưởng từ nó, tâm lý thay đổi, thậm chí khiến cho nhân cách bị thoái hóa. Công nghệ phát triển cao, không chỉ sách in, sách điện tử cũng vượt tầm kiểm soát, nhiều loại sách lưu trữ nội dung nhạy cảm, không phù hợp văn hóa, lứa tuổi thanh thiếu niên. Giới trẻ tiếp xúc nhiều đã ảnh hưởng đến tâm lý, gây ra nhiều vụ việc đau xót trong xã hội.
Từ những lí do đó, mõi chúng ta cần biết chọn sách để đọc. Tiêu chí đầu tiên là sách phải phù hợp văn hóa, đạo đức. Đồng thời chọn sách phù hợp lứa tuổi, phù hợp khả năng tiếp nhận, đọc hiểu của mình. Không chọn sách sai mục đích, không chạy theo đám đông. Hãy cân nhắc kỹ càng trước khi chọn một cuốn sách. Tuy nhiên, không phải bất kỳ cuốn sách nào cũng hoàn hảo tuyệt đối, đọc sách cần chủ động lựa chọn những điều đúng, điều tốt và tránh những điều chưa hoàn thiện, chưa thực sự đúng đắn.
Sách đọc không đơn giản là một vật dụng bình thường mà còn là người thầy, người bạn trung thành. Sách có đem đến hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào cả sự lựa chọn của người đọc. Hãy biết chọn lựa để có được cho mình nguồn kiến thức bổ ích từ sách.
Bài văn chứng minh rằng cần phải chọn sách mà đọc số 2
Bài văn chứng minh rằng cần phải chọn sách mà đọc số 3Bài văn chứng minh rằng cần phải chọn sách mà đọc số 2
Con người muốn trở nên trưởng thành cần phải chiếm lĩnh tri thức, sách chính là công cụ hữu ích cho tất cả những ai muốn tìm hiểu về một vấn đề, một nội dung hay giải đáp thắc mắc nào đó. Nhưng chọn sách sao cho đúng sao cho phù hợp thì không phải ai cũng có thể làm được, để có thể chiếm lĩnh trọn vẹn tri thức thì cần phải chọn sách sao cho phù hợp.
Qua hàng trăm, hàng nghìn năm sống cùng với thiên nhiên, sống để chinh phục thiên nhiên, sống để tìm hiểu thêm những điều kỳ thú mà thiên nhiên đem lại, để rồi lượng kiến thức khổng lồ đó được lưu giữ vào các cuốn sách. Đọc sách là để bồi dưỡng nhận thức, tìm hiểu những thứ xung quanh mà bản thân chưa biết, kiến thức là vô tận mà những mình biết chỉ là giọt nước nhỏ giữa đại dương vô tận, vì vậy việc đọc sách là vô cùng có ích bởi sách rất đa dạng cả về nội dung và hình thức.
Qua sách vở con người được tiến gần hơn với những điều không thể trực tiếp chứng kiến, qua sách con người có thể tự bản thân mình sáng tạo hơn trong bất kì hoàn cảnh nào, qua sách con người có thêm kinh nghiệm, có thêm vốn sống. Thế nhưng không phải cuốn sách nào cũng giống nhau, không phải cuốn sách nào cũng có thể đáp ứng nhu cầu mà người đọc mong muốn, thế hệ học sinh được tiếp cận sách với độ khó tăng dần qua các cập, chính vì thế mà việc chọn lựa sách là hết sức quan trọng
Bên cạnh những cuốn sách có nội dung tích cực thì hàng loạt những cuốn sách có nội dung tiêu cực ra đời, những cuốn sách đó đi ngược lại với những chuẩn mực của xã hội, những cuốn sách mang bên trong có nội dung đồ trụy, nội dung phản động, nội dung phản khoa học làm cho con người khi đọc những cuốn sách đó sẽ có suy nghĩ lệch lạc, sẽ có tư tưởng không được trong sáng, bản thân chính người đọc sẽ cảm thấy chán nản, tạo tâm lý bất ổn, tinh thần vừa không thoải mái lại phải chịu thêm nhiều áp lực.
Khi tiếp cận với cuốn sách nào đó, không thể chỉ nhìn sự hào nhoáng cuốn hút bên ngoài mà trở nên yêu thích cuốn sách đó, cần phải tìm hiểu về nội dung bên trong mà cuốn sách muốn truyền tải, hơn nữa khi chọn sách cũng cần chọn đúng mục đích, đúng với từng lứa tuổi bởi khi chọn cho bản thân một cuốn sách hay, thích hợp sẽ tạo cảm giác thích thú khi tiếp cận với kiến thức, cảm thấy thư giãn với những nội dung mà sách đem lại.
Bài văn chứng minh rằng cần phải chọn sách mà đọc số 6Bài văn chứng minh rằng cần phải chọn sách mà đọc số 3
Sách chính là nguồn tri thức phong phú dồi dào mà nhân loại dành tặng cho mỗi người chúng ta, sách mang lại cho chúng ta bao điều hay trong cuộc sống, dạy cho ta những châm ngôn hay, đem lại cho ta nhiều giá trị, có rất nhiều loại sách cho bạn đọc nhưng không phải sách nào cũng được, chính vì vậy cần phải chọn sách mà đọc.
Những cuốn sách là những ghi chép mọi kiến thức về xã hộ, văn học, toán học, thiên văn học, …. mỗi cuốn có cái hay, thú vị riêng. Có khi là những dòng tâm sự rất bình thường của tác giả khi trải qua một cuộc tình nào đó. Đọc sách là một thói quen tốt cho mọi người, một người hay đọc sách thì họ có thể biết thêm điều mới qua từng trang sách, bồi dưỡng thêm cho kiến thức và nghiệp vụ.
Việc lựa chọn sách mà đọc rất quan trọng tùy thuộc vào độ tuổi, tâm lý, hay những kiến thức đang học thì mỗi đối tượng có cách lựa chọn sách để đọc. Không thể bắt một đứa trẻ con đi đọc sách kinh tế, hay một người trẻ tuổi lại đi đọc sách thiếu nhi.
Đối với một đứa trẻ thì chúng thường lựa chọn những cuốn truyện tranh, truyện cổ tích về các nàng công chúa và hoàng tử trong truyền thuyết, vì đối với chúng những câu chuyện rất thú vị phù hợp với độ tuổi của chúng, trong tâm lý của nó như tờ giấy trắng mọi thứ rất đơn giản và đầy màu hồng. Không nên cho trẻ đọc các chuyện tình cảm của người lớn vì như thế nó ảnh hưởng đến độ tuổi đang phát triển về cả tâm lý lẫn thể chất, nó có thể gây ra một tính chất ngược dẫn đến các hành động, lời nói sẽ thay đổi theo.
Đối với một người trẻ tuổi thì họ lại thiên về các loại sách về cách sống, cách giao tiếp, các môn chuyên ngành đang học, hay những câu chuyện nước ngoài về động lực sống tiếp của con người, các hoàn cảnh nghèo vượt khó đạt nhiều thành tích cao trong học tập cũng như hoạt động của trường lớp, dạy cho họ điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với mọi hoàn cảnh vì đây là độ tuổi dễ bị thu hút bởi các tệ nạn xã hội, mặt trái của xã hội để họ hiểu và tránh xa những thứ không lành mạnh có hại cho bản thân. Để ta có một thái độ nghiêm túc cho việc học hành và có trách nhiệm trong lời nói, hành động mà mình làm ra, tạo cho ta sự tín nhiệm cao.
Đối với những người đã đi làm hay người già, họ đã trải qua một khoảng thời gian tiếp xúc với nhiều người, gặp nhiều tình huống rồi thì họ lại muốn lựa chọn quyển sách thiên về văn học, sáng tác hay những danh ngôn, họ đọc những tờ báo, những quyển sách đơn giản để thư giãn đầu óc sau mỗi buổi làm việc vất vả hay đơn giản chỉ là đọc sách để giết thời gian. Hay đọc thích cũng tùy thuộc vào sở thích của từng người nhưng nó lại phụ thuộc quyển sách đó có đưa những thông tin lành mạnh và phù hợp với độ tuổi của mình hay không.
Như vậy việc lựa chọn sách rất quan trọng, nó ảnh hưởng rất nhiều đến hành động của mỗi người, có những định nghĩa chính xác. Ngày xưa thời các cụ không được đọc sách nhiều vì hoàn cảnh khó khăn, làm lụng vất vả, chỉ thay nhau đọc được hai ba quyển sách. Còn bây giờ khi xã hội phát triển, cùng sự kinh tế phát triển theo, nên giờ có rất nhiều thể loại sách cho bạn lựa chọn đọc.
Mỗi lần khi bạn đọc cần chọn cho mình những quyển sách phù hợp với thực tiễn, với những gì bạn đang học đang thiếu sót, phải xem xét một cách cẩn thận chứ không thể vơ bừa, đọc nhiều chưa chắc đã biết cách đọc, thay vì hàng giờ dành thời gian đọc các quyển truyện ngôn tình không có thật, xa vời với thực tế những gì bạn đang học thì hãy tìm những quyển sách chuyên ngành, hoặc sách kể về những tình huống đời thực, hay đơn giản quyển sách dạy ta biết cách đối nhân xử thế trong cuộc sống hàng ngày mà ta gặp phải, để bồi dưỡng thêm chuyên môn, sau này ra trường có những căn bản để khỏi bỡ ngỡ.
Tràn lan các loại sách trên thị trường, nhưng có nhiều quyển là sách lậu không chính chủ, có nhiều thông tin sai lệch, hay đơn giản nó làm cho ta hiểu sai bản chất của sự việc, với những nội dung không lành mạnh, nhiều người gọi đó là “sách đen”, “sách lậu”, nó có thể làm cản trở sự phát triển trí óc của chúng ta, ngăn cản những hoạt động tích cực.
Chính vì vậy mà hãy lựa sách mà đọc, bên cạnh những quyển sách lậu có nội dung đúng và tích cực cho phát triển của xã hộ, nó tác động rất nhiều đến mỗi chúng ta, thì những quyển sách lậu cần được loại trừ, tịch thu và lên án. Những quyển sách đen có thể gây ra cho con người bị ma mị, phản lại tổ quốc, thể hiện nhiều tiềm ẩn không lành mạnh trong suy nghĩ và hành động.
Quyển sách chính là những người bạn tri kỉ, thân thiết, đồng hành cùng chúng ta trên từng con đường học tập và trong cuộc sống hàng ngày, là người thầy vô giá dạy cho ta biết bao điều hay lẽ phải, các cụ ngày xưa từng có câu ” chọn bạn mà chơi, chọn thầy mà học” vì thế sách cũng vậy hãy chọn sách mà đọc, đừng chọn sách sai vì có thể nó cũng khiến bạn làm ra những suy nghĩ tiêu cực về cuộc đời này.
Bài văn chứng minh rằng cần phải chọn sách mà đọc số 6
Bài văn chứng minh rằng cần phải chọn sách mà đọc số 7Bài văn chứng minh rằng cần phải chọn sách mà đọc số 6
Cuộc đời của con người là chuỗi những cuộc hành trình, đó là cuộc hành trình chinh phục những khó khăn, gặt hái những thành quả cho chính mình; là cách để con người khẳng định vị trí của trong cuộc sống này. Và có thể bắt đầu và hoàn thành một cuộc hành trình thì bên cạnh bản lĩnh kiên cường, ý chí quyết tâm thì còn cần những kiến thức, hiểu biết nhất định về cuộc sống, những hiểu biết ấy có thể bắt nguồn từ những trải nghiệm thực tiễn của con người. Hoặc dễ dàng hơn thì con người có thể tìm hiểu những tri thức này trong sách vở, vì đó là những cuốn bách khoa toàn thư về thế giới, mà ông cha ta đã dày công ghi chép qua bao thế hệ. Tuy nhiên, việc đọc sách là cần có sự chọn lựa, không phải sách nào cũng có thể đọc, đọc mà đạt được hiệu quả như mong muốn.
Sách là một sản phẩm vô giá của loài hàng. Qua hàng ngàn năm sinh sống và chinh phục tự nhiên, con người đã không ngừng tác động vào thế giới, cũng do những tác động đó mà con người dần hiểu hơn về chúng. Điều đặc biệt là ông cha ta qua các thế hệ đều có xu hướng ghi chép lại những kinh nghiệm, hiểu biết của mình về thế giới, lưu truyền từ đời này sang đời khác nhằm truyền lại cho các thế hệ con cháu sau này. Vì vậy mà con cháu đời sau có thể thông qua những cuốn sách này có thể đón nhận được những phát minh, phát hiện, những khám phá độc đáo về thế giới.
Qua sách vở con người có thể nâng cao tri thức, hiểu biết của mình về thế giới. Bên cạnh nền tảng là những thành tựu văn minh của các thế hệ trước, cùng với tinh thần học học, sáng tạo không ngừng mà con cháu thế hệ sau phát minh ra những thành tựu khoa học rực rỡ, hiện đại như ngày nay. Như vậy, ta có thể hiểu sách tuy là những thứ vật chất bên ngoài nhưng lại chứa đựng một thế giới tâm hồn, hiểu biết rộng lớn của loài người qua bao thế hệ. Đối với học sinh chúng ta, sách vở là một phương tiện để chúng ta hiểu hơn về thế giới, thông qua đó để có tri thức cải tạo thế giới, làm cho thế giới ngày càng trở nên tươi đẹp.
Tuy có vai trò quan trọng đối với cuộc sống của con người nhưng không phải cuốn sách nào cũng có giá trị để chúng ta học tập, hiểu biết. Tức là giúp chúng ta tiến bộ, tích cực hơn. Nhưng bên cạnh những cuốn sách có giá trị khoa học, nhân văn thì cũng còn có rất nhiều những cuốn sách có nội dung tiêu cực làm cho con người thay đổi theo hướng xấu đi. Đó là những cuốn sách có nội dung phản động, phản khoa học, thậm chí là những cuốn sách có nội dung đồi trụy. Những cuốn sách đó sẽ làm cho con người trở nên u mê, suy nghĩ tiêu cực, thay đổi tính chất, bản tính vốn có.
Cũng có lẽ vì vậy mà ngày nay nhà nước ta có sự quan tâm đúng mức, quản lí chặt chẽ các loại sách, đặc biệt là những cuốn sách, văn hóa phẩm đồi trụy, tránh ảnh hưởng đến thế hệ học sinh, sinh viên cũng như tất cả mọi người dân. Bên cạnh đó khuyến khích những cuốn sách có nội dung hay, có những kiến thức bổ ích đối với sự phát triển, có vai trò định hướng nhân cách cho con người.
Do đó, khi chúng ta tiếp cận với một cuốn sách nào đó thì cần phải có sự xem xét kĩ lưỡng, xem chúng có phù hợp với lứa tuổi của mình không, có giúp ích gì công việc, học hành hay cuộc sống của mình không. Vì nếu đọc được một cuốn sách hay, có nội dung bổ ích sẽ tích lũy cho người đọc những nền tảng kiến thức nhất định, và có thể vận dụng chúng vào cuộc sống để hoàn thành tốt những công việc, học hành. Nuôi dưỡng ở con người một thế giới tâm hồn phong phú, sinh động, nhân văn; biết yêu thương, quý trọng con người, biết sống phù hợp với những chuẩn mực đạo đức.
Khi đọc một cuốn sách có nội dung không phù hợp với lứa tuổi thì không nhưng ta không lĩnh hội hết được những tri thức mà cuốn sách chứa đựng mà còn mất thời gian, tạo ra cảm giác chán nản, tâm lý bất ổn vì mình không thể lĩnh hội. Như vậy ta vừa mất thời gian mà cũng không thể đạt được mục đích của ta muốn. Qua đó ta mới thấy tầm quan trọng của việc đọc sách với việc chọn sách để đọc. Đó không chỉ đơn thuần là đọc để mua vui, đọc để giải trí mà trên hết là đọc để hiểu biết, đọc để trở thành con người có tri thức. Trong cuộc sống khi có tri thức, hiểu biết thì làm gì cũng dễ dàng, thuận lợi, và ngược lại, nếu như ta mơ hồ về thế giới xung quanh mình thì sẽ vấp phải những thất bại đáng tiếc.
Như vậy, ta có thể thấy đọc sách là để lĩnh hội, đọc sách là để tiếp thu những cái đẹp, phát triển bản thân theo hướng tiến bộ. Hiểu được mục đích của việc đọc sách ta sẽ thấy tầm quan trọng của việc chọn sách khi đọc.Khi còn là học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta cần tích cực rèn luyện, bồi dưỡng tu luyện kiến thức bằng cách đọc nhiều sách. Nhưng cũng cần chú ý đến tính phù hợp cũng như hiệu quả lĩnh hội của những cuốn sách đó.
Bài văn chứng minh rằng cần phải chọn sách mà đọc số 8Bài văn chứng minh rằng cần phải chọn sách mà đọc số 7
Mỗi ngày, bạn nên dành cho mình ít nhất 30 phút để đọc sách. Bạn sẽ thấy có rất nhiều điều thú vị và còn rất nhiều thứ chúng ta phải học. Sách sẽ dạy chúng ta tất cả những gì chúng ta muốn học. Hãy chịu khó đọc sách để hoàn thiện kiến thức và kỹ năng cũng như nuôi dưỡng tâm hồn của chính chúng ta. Chỉ với 30 phút mỗi ngày, dần dần bạn sẽ thấy mình biết thêm rất nhiều thứ và học được rất nhiều điều. Nếu không đọc sách, bạn sẽ không thể hiểu được ông cha ta đã sống và đã hy sinh như thế nào? Bạn cũng sẽ không thể biết được những người nổi tiếng họ thành công bằng cách nào? Và làm thế nào để bạn có thể được như họ?. Thật đáng tiếc cho những ai không hiểu được tác dụng của việc đọc sách. Nếu không đọc sách, bạn sẽ trở thành người lạc hậu bởi sự hiểu biết của bạn bị hạn hẹp và vì thế bạn sẽ không thể thành công.
Việc đọc sách đối với mỗi người là vô cùng quan trọng. Bởi sách là nguồn tri thức quý giá mà nhân loại đã trao tặng cho bạn. Bạn nên có thói quen đọc sách và chọn sách là bạn đồng hành trên con đường hướng đến thành công của bạn. Bạn hãy trân trọng từng quyển sách và hãy cố gắng tiếp thu và thực hành những kiến thức trong sách – chắc chắn bạn sẽ có được những thứ mà bạn muốn!
Bài văn chứng minh rằng cần phải chọn sách mà đọc số 10Bài văn chứng minh rằng cần phải chọn sách mà đọc số 8
Trong thiên hạ, sách đọc thì nhiều, người đọc sách cũng không ít. Tại sao có người nhờ sách mà có thể được mọi người yêu quý và ngưỡng mộ, lại có kẻ đọc trăm ngàn quyển sách mà vẫn không sao thay đổi và biến đổi được. Đó còn là do sách mà họ đọc là gì. Vì thế, cần phải chọn sách mà đọc.
Sách- một danh từ đã quá quen thuộc với mọi người. Từ quyển sách thiếu nhi, truyện tranh bên ta lúc còn nhỏ đến bộ sách giáo khoa theo ta suốt hơn 12 năm học tập và cả những cuốn sách đầy ngoài hàng và trên kệ ở các con phố. Đó chỉ là những trang giấy trắng được in những con chữ màu đen, những hình ảnh rực rỡ sắc màu. Nếu như thế, người ta không gọi nó là sách. Sách là nơi lưu trữ, chứa đựng những tình cảm vui buồn, những tình yêu, thù hận được người viết sẻ chia trên trang giấy, là những kinh nghiệm hiểu biết của những người thành công, của cha ông ngàn đời trước truyền tới mọi người, dành cho thế hệ mai sau. Đó không phải là những con chữ vô tri, đó là cảm xúc và là hiểu biết, là tri thức.
Chúng ta là con người, chúng ta phải đọc sách. Con người chúng ta khác với những loài động vật khác là chúng ta có đầu óc tư duy để học hỏi và nhận thức cũng như một trái tim ấm nóng để rung cảm và yêu thương. Đọc sách sẽ giúp ta rèn được điều đó. Con người luôn ưa khám phá và tìm hiểu, luôn muốn được thành công và hạnh phúc. Họ có thể đi ra ngoài trải nghiệm, học hỏi. Nhưng thay vì vấp phải những lỗi lầm người khác đã từng ngã, dành thời gian tìm hiểu những thứ đã được khai phá, bạn có thể đọc sách để rút ngắn thời gian của mình.
Khi đã có những cuốn sách “Cha giàu cha nghèo”, “Người giàu nhất thành Babylon” hay những cuốn sách của Jack Ma, bạn không phải mất công tìm kiếm bí quyết trong kinh doanh. Những cuốn sách “Chiến tranh và hòa bình”, “Kẻ trộm sách”, “Thép đã tôi thế đấy” cho ta sống về thời lịch sử huy hoàng thuở trước. Đọc sách còn để rèn tư duy và nhận thức về cuộc sống, biết yêu thương và tin yêu hơn cuộc sống với những cuốn “Hạt giống tâm hồn”, “Tuổi trẻ đáng giá bao nhiêu” của Rose Nguyễn, “Bức xúc không làm ta vô can” của Đặng Hoàng Giang, … Và như thế, những phẩm chất và tình cảm, tâm hồn của ta sẽ phong phú hơn, đẹp đẽ hơn, sống có nghĩa và có ích hơn.
Nhưng cần phải chọn sách để đọc. Bởi không phải cuốn sách nào cũng đều hay và tốt. Sách chia ra làm sách tốt và sách xấu sách giả và sách thật, sách không chính thống và sách chính thống. Tấm huy chương nào cũng có hai mặt của nó.Trong xã hội thị trường với sự phát triển mạnh của công nghệ thông tin, ngày càng nhiều người xưng danh nhà văn, nghệ sĩ, và ngày càng nhiều những nhà xuất bản ra đời. Những tác phẩm viết về những thứ tầm thường của cuộc sống, viết sai kiến thức khoa học, giới thiệu hay quảng bá cho những điều xấu, những sách lậu, không có bản quyền, … đã không còn là chuyện lạ nữa. Phương tiện cao quý của tri thức và tâm hồn đang dần bị lợi dụng và bị phá hủy. Rất nhiều học sinh đã có hiểu biết sai lệch, nhận thức tồi tệ hơn khi đọc sách. Đọc sách đúng bản quyền, có thẩm định và có ý nghĩa. Vì thế nên mới cần chọn sách để đọc.
Trong xã hội hiện đại, theo tâm lí đám đông, những cuốn sách được truyền tay rất nhanh, đến với rất nhiều người nhưng không mấy ai hiểu được giá trị của nó. Mỗi người có một quan điểm, một sở thích và vốn hiểu biết riêng. Sách mọi người đọc chưa chắc đã hợp với mình. Chỉ có chúng ta mới biết chúng ta muốn gì, thích gì. Một người thích những chuyện nhân văn không thể đọc Shelock Home được. Một người yêu khoa học và logic sẽ không cảm nhận được cái hay của Harry Poter, … Bạn đọc sách cho mình. Vì vậy, cần chọn sách cho mình thay vì đi theo người khác.
Sách là một con dao hai lưỡi. Nếu ta biết dùng nó đúng cách ta có thể chế biến và làm được bao nhiêu thứ. Nhưng nếu ta không biết cách, chính chúng ta sẽ tự làm tổn thương mình bằng con dao đó. Vì thế, sách là quý nhưng cần phải chọn sách để đọc. Đọc sách không phải đọc theo trào lưu, đọc cho người khác. Cũng đừng để đọc sách là đang giết chết sách (khi trên tay bạn là những quyển sách giả giá rẻ). Chúng ta xứng đáng để có một quyển sách thật, một giá trị thật và một lẽ sống thật.
Sẽ thế nào nếu trên thế gian này chẳng còn sách? Thì cuộc sống này có lẽ cũng chẳng kéo dài lâu nữa.
Bài văn chứng minh rằng cần phải chọn sách mà đọc số 10
Chính vì vậy, khi đọc sách, mỗi chúng ta cần phải tỉnh táo, cẩn thận lựa chọn sách hay, sách tốt để đọc, đó chính là một trong những biểu hiện đẹp của văn hóa đọc sách.
Đăng bởi: Triệu Lệ Dĩnh
Từ khoá: 10 Bài văn chứng minh rằng cần phải chọn sách mà đọc (lớp 7) hay nhất
Văn Mẫu Lớp 7: Chứng Minh Câu Đoàn Kết Là Sức Mạnh Vô Địch (10 Mẫu) Những Bài Văn Hay Lớp 7
Đoàn kết là sức mạnh vô địch
Tài liệu bao gồm 10 bài văn mẫu lớp 7, chứng minh câu Đoàn kết là sức mạnh vô địch. Mời các bạn học sinh cùng tham khảo nội dung chi tiết ngay sau đây để có thêm ý tưởng cho bài văn của mình.
Tục ngữ có câu:
Đoàn kết là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy mà có câu: “Đoàn kết là sức mạnh vô địch”.
Câu nói hoàn toàn đúng đắn khi khẳng định vai trò của tinh thần đoàn kết. Con người khi biết hợp sức, đồng lòng lại cùng nhau sẽ tạo ra sức mạnh to lớn để vượt qua mọi khó khăn, nghịch cảnh trong cuộc sống. Một người có thể hoàn thành công việc, nhưng nếu nhiều người cùng chung sức thì sẽ hoàn thành công việc nhanh chóng và tốt đẹp hơn.
Tinh thần đoàn kết đã được thể hiện từ trong quá khứ đến hiện tại. Lịch sử của dân tộc Việt Nam trải qua những năm tháng đấu tranh để bảo vệ đất nước. Từ các triều đại phong kiến phương Bắc đến thực dân Pháp, đế quốc Mĩ. Nhưng khi đối đầu với bất cứ kẻ thù nào, nhân dân ta cũng đồng lòng để đánh tan kẻ thù ấy. Cho đến ngày hôm nay, tinh thần đoàn kết còn gắn liền với tấm lòng tương thân tương ái. Đại dịch Covid-19 xảy ra khiến cho thế giới phải gánh chịu nhiều đau thương, trong đó có cả Việt Nam. Nhưng dù trong hoàn cảnh đó, con người Việt Nam vẫn đoàn kết một lòng để vượt qua. Đảng và Nhà nước đã ban hành các quy định để ứng phó với dịch bệnh. Các y bác sĩ xung phong lên tuyến đầu chống dịch không quản ngại cả đều đã thể hiện được tinh thần đoàn kết. Mọi người dân đều nghiêm túc chấp hành những quy định về phòng chống dịch bệnh. Tất cả đã thể hiện được sự đồng lòng của của toàn thể đất nước, với niềm tin rằng một ngày không xa chúng ta sẽ chiến thắng đại dịch.
Hiện nay, một số người có lối sống cá nhân, sống xa rời tập thể. Họ không có tinh thần đoàn kết, điều đó sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển của xã hội. Mỗi người hãy ý thức cần tránh xa lối sống ích kỉ, cá nhân như vậy.
Câu nói “Đoàn kết là sức mạnh vô địch” giúp mỗi người hiểu hơn giá trị của tinh thần đoàn kết. Mỗi người hãy nhắc nhở bản thân tiếp tục kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp này của cha ông.
Đoàn kết là truyền thống tốt đẹp đã được nhân dân Việt Nam tận dụng từ xưa đến nay. Bởi vậy mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng “Đoàn kết là sức mạnh vô địch”.
“Đoàn kết” là sự gắn kết, sự liên kết bền chặt giữa các cá nhân trong một tập thể để trải qua hoặc hoàn thành những giai đoạn khác nhau của cuộc sống. Còn “sức mạnh” là khả năng tác động mạnh mẽ đến những người khác, đến sự vật, gây tác dụng ở mức cao. “Vô địch” là không có đối thủ nào đánh bại được. Như vậy, “Đoàn kết là sức mạnh vô địch” khẳng định rằng chính nhờ có sự đoàn kết sẽ tạo ra một sức mạnh to lớn giúp con người vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.
Con người sinh ra không ai có thể sống cô độc. Mỗi người đều cần có sự hòa nhập với cộng đồng. Có những công việc, con người cần đoàn kết mới có thể hoàn thành. Đoàn kết là yếu tố đi đầu dẫn đến mọi thành công. Sức mạnh vĩ đại của tinh thần đoàn kết được chứng minh trong quá khứ. Khi cả dân tộc Việt Nam đã đoàn kết một lòng chống lại kẻ thù xâm lược. Từ khởi nghĩa hai bà Trưng, bà Triệu đến Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn mười hai sứ quân. Rồi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng hay cuộc kháng chiến chống Tống của Lý Thường Kiệt và cả Hưng Đạo vương – Trần Quốc Tuấn ba lần đánh thắng quân Nguyên – Mông… Bất kì cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược nào, bên cạnh sự lãnh đạo tài tình của các vị tướng, còn có sự đoàn kết từ quân đến dân trên dưới một lòng chống lại kẻ thù.
Đến hôm nay, tinh thần đoàn kết ấy lại một nữa chứng tỏ sức mạnh to lớn của nó để giúp Việt Nam chiến thắng đại dịch Covid-19. Ngay từ khi nước ta có ca nhiễm đầu tiên cho đến thời điểm số người nhiễm bệnh lên tới hàng chục, hàng trăm người. Cả chính quyền lẫn người dân đều thể hiện được tinh thần đoàn kết một lòng. Những quy định nghiêm ngặt của Nhà nước về việc phòng chống dịch bệnh lập tức được ban hành. Những người dân từ người già đến trẻ nhỏ đều nghiêm chỉnh chấp hành các quy định: như đeo khẩu trang khi đi đến nơi công cộng, thường xuyên rửa tay bằng nước sát khuẩn, hạn chế đi ra nơi đông người…
Tục ngữ có câu: “Một cây làm chẳng nên non/Ba cây chụm lại nên hòn núi cao” để khẳng định vai trò của việc đoàn kết một lòng. Nhưng hiện nay, rất nhiều người có lối sống ích kỉ, chỉ biết chạy theo lợi ích cá nhân mà sẵn sàng bán đứng lợi ích của tập thể. Nhiều người còn tìm cách chia rẽ sự đoàn kết của đất nước. Đó quả là những hành vi đáng lên án.
Như vậy, lời khẳng định “Đoàn kết là sức mạnh vô địch” hoàn toàn đúng đắn. Chúng ta cần phải giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp đó của dân tộc Việt Nam.
“Đoàn kết là sức mạnh vô địch” – đó là lời khẳng định hết sức có giá trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tinh thần đoàn kết vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia, dân tộc.
“Đoàn kết là sức mạnh vô địch” muốn khẳng định rằng chính nhờ có sự đoàn kết sẽ tạo ra một sức mạnh to lớn giúp con người vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.
Con người là tổng hòa của những mối quan hệ trong xã hội. Mỗi chúng ta khi sống trong một tập thể thì cần phải biết bỏ qua cái tôi cá nhân, cùng nhau đoàn kết vì lợi ích của tập thể. Đặc biệt, tinh thần đoàn kết lại càng quan trọng hơn đối với một quốc gia. Kho tàng tục ngữ, ca dao đã có rất nhiều câu nói thể hiện nội dung của sự đoàn kết như “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”, “Chung lưng đấu cật”, “Nhiều tay vỗ nên kêu”, “Một cây làm chẳng nên non/Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, “Góp gió thành bão”…
Lịch sử của đất nước Việt Nam trải qua bao nhiêu năm là gắn với bấy nhiêu năm chiến đấu để bảo vệ đất nước. Nhưng cho dù trong bất cứ thời đại nào, nhân dân ta cũng đoàn kết một lòng đánh bại kẻ thù xâm lược. Đối với cuộc sống ở hiện tại, tinh thần đó vẫn được phát huy. Các phong trào, các chương trình từ thiện, giúp đỡ những hoàn cảnh gặp khó khăn vẫn luôn được duy trì và phát triển trong cộng đồng như chương trình “Trái tim cho em” dành cho các bệnh nhi bị tim bẩm sinh, chương trình “Lục lạc vàng” trao tặng bò cho những gia đình có hoàn cảnh khó khăn phấn đấu vươn lên, chương trình “Cặp lá yêu thương” hay các đợt từ thiện giúp cho đỡ đồng bào miền Trung chống lũ…
Chúng ta cũng cần ý thức được rằng, không chỉ đoàn kết trong một quốc gia. Mà tinh thần đó cần phải phát huy trong mỗi tập thể từ nhỏ đến lớn. Đối với học sinh, thì chúng ta cần đoàn kết với bạn bè để cùng nhau xây dựng trường lớp tốt đẹp hơn.
Như vậy, câu nói của chủ tịch Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn. Chúng ta hãy ghi nhớ để có thể giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp này của dân tộc.
Cuộc sống có biết bao nhiêu là chông gai và thử thách như muốn nhấn chìm con người. Nhưng nếu có sự đoàn kết thì những khó khăn sẽ được san sẻ. Bởi “Đoàn kết là sức mạnh vô địch”.
Chắc rằng bạn vẫn từng nghe hay đọc qua “chuyện bó đũa”. Qua câu chuyện ta như thấy rằng nếu như sống đơn lẻ con người sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Ngược lại nếu như biết đoàn kết tương trợ lẫn nhau thì mọi khó khăn giống như cơn gió thoáng qua mà thôi.
Đoàn kết chính là một mối liên kết giữa các thành viên lại với nhau để cùng chung tay làm một điều gì đó. Khi có sự đoàn kết chúng ta có thể nhanh chóng hoàn thành công việc một cách dễ dàng nhất, nhanh chóng nhất. Sự đoàn kết được thể hiện bằng động cơ, bằng chính những mục đích đúng đắn vì lợi ích tập thể phù hợp với sự phát triển chung của xã hội. Nếu như chúng ta cứ tập hợp lại chỉ vì lợi ích nhỏ hẹp của tập thể mà đi ngược lại sự phát triển chung của cả xã hội thì đó là tư tưởng cục bộ, là chủ nghĩa cá nhân.
Con người sống trong xã hội được xem chính là “tổng hòa của các mối quan hệ”. Để có thể sống và tồn tại trong môi trường xã hội thì cần phải tổng hợp sức mạnh của nhiều thành viên. Không ai có thể làm một việc gì thành công mà không cần đến sự tương trợ lớn hơn là sự đoàn kết đồng lòng của nhiều người với nhau.
Thế nhưng tại sao đoàn kết lại là sức mạnh vô địch? Câu trả lời có lẽ vì đoàn kết sẽ tạo điều kiện cho mỗi cá nhân phát huy hết khả năng tiềm tàng của mình. Chính sự đoàn kết cũng đã tạo nên một sức mạnh tổng hợp, một sự vĩ đại, không ai địch nổi. Trước hết, ta như thấy được tinh thần đoàn kết làm tăng số lượng của cải, vật chất của con người. Bởi khi có đoàn kết con người mới có sức lao động, mọi người cũng kết hợp với nhau thì có đủ khả năng để xây dựng những công trình lớn.
Ta cũng đã đọc những câu thơ quen thuộc đó như:
Khi có sự hợp sức đồng lòng thì chẳng có một trở ngại nào là không thành cả. Thực tế lịch sử cũng đã chứng minh rằng trước kẻ thù hung bạo từ thổ chí kim cho đến nay dân ta vẫn chiến thắng. Nếu so về vũ khí, quân trang quân dụng thì nhân dân ta thua xa. Một bên là súng ống, máy bay… một bên lại là cuốc, thuổng, gậy gộc… mà tại sao bên vũ khí thô sơ lại chiến thắng? Một trong những lý do quan trọng nhất đó chính là bởi tinh thần đoàn kết quân dân nhất nhất một lòng, vì một mục tiêu lý tưởng chung của cả dân tộc.
Đoàn kết như được biết đến bởi nó như còn làm tăng sức mạnh trí tuệ. Có thể thấy được rằng, chính trong sự đoàn kết trong nghiên cứu khoa học cũng là nguồn gốc, là nguồn động lực của biết bao thành tựu kĩ thuật. Khi một công trình nghiên cứu được công nhận nó không chỉ là công lao của người trí thức đã tìm tòi. Mà chính trong quá trình làm dự án, đề tài đó người sáng tạo đề tài luôn tận dụng tối đa sức mạnh đoàn kết của những người giúp đỡ mình. Nếu như mà không có sự tương hỗ đó thì chẳng bao giờ công trình nghiên cứu đó được hoàn thành cả. Đoàn kết chính là sức mạnh to lớn bởi nó được hội tụ bởi rất nhiều sức mạnh nhỏ khác hợp thành.
Nếu như chúng ta muốn đoàn kết được các dân tộc trong một nước thì các dân tộc không phân biệt dân tộc lớn hay dân tộc nhỏ đi chăng nữa thì đều phải tôn trọng, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau. Nhà nước cũng cần phải quan tâm và sát sao hơn nữa để ưu tiên các cơ sở vật chất kỹ thuật cho các dân tộc vùng sâu vùng xa để họ phát triển kinh tế, văn hóa để có thể tiến kịp các dân tộc vùng xuôi. Ngoài ra các dân tộc vùng xuôi không thụ động mà cũng cần phải cùng cần góp sức xây dựng miền núi. Các dân tộc sống trong cùng một nước phải hòa nhập với nhau thì mới có thể xây dựng đất nước vững mạnh. Một đất nước có mạnh hay không thì cũng phải phụ thuộc chính và đời sống nhân dân ở đó. Đúng như ý của một nhà quân sự ngày trước: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Cho nên nhân dân phải đoàn kết thì mới có thể đưa cả đất nước phát triển được.
Quả thực rằng câu nói “Đoàn kết là sức mạnh” là một câu nói đúng đắn của Bác Hồ – vị lãnh tụ đáng kính của dân tộc. Cho nên học sinh chúng ta cần phải rèn luyện thường xuyên. Mỗi chúng ta cũng cần có tinh thần đoàn kết trong công việc của lớp, của trường, cùng nhau xây dựng một tập thể vững mạnh. Đặc biệt là trong cuộc sống ở gia đình, khu phố cùng vậy, phải luôn luôn có ý thức đoàn kết đúng đắn.
Tại Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ nhất tổ chức ở Hà Nội tháng 4 năm 1955, Bác Hồ có nói: “Đoàn kết là sức mạnh vô địch”. Câu nói tuy ngắn gọn nhưng dễ hiểu chính xác và đầy đủ thì không đơn giản chút nào.
Theo em, có thể hiểu, đoàn kết là tập hợp các phần tử lẻ tẻ hoặc các bộ phận thành một khối thống nhất. Song thống nhất không có nghĩa là không đấu tranh với những biểu hiện sai trái của mỗi thành viên. Ví như ở lớp, ở trường chúng em đoàn kết chính là yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau, cùng hướng mục tiêu phấn đấu tốt; đồng thời biết góp ý, phê phán những khuyết điểm của bạn để bạn tiến bộ. Đoàn kết được thể hiện bằng động cơ, mục đích đúng đắn vì lợi ích tập thể, phù hợp với sự phát triển chung của xã hội. Nếu tập hợp lại chỉ vì lợi ích nhỏ hẹp của tập thể mà đi ngược lại sự phát triển chung của xã hội thì đó là tư tưởng cục bộ, là chủ nghĩa cá nhân.
Nhưng tại sao đoàn kết là một sức mạnh vô địch? Có lẽ vì đoàn kết sẽ tạo điều kiện cho mỗi cá nhân phát huy khả năng tiềm tàng của mình, tạo nên một sức mạnh tổng hợp, vĩ đại, không ai địch nổi. Trước hết, đoàn kết làm tăng số lượng của cải, vật chất của con người. Có đoàn kết con người mới có sức lao động, có đủ khả năng để xây dựng những công trình lớn. Nhà máy thủy điện Hòa Bình là một minh chứng rõ nhất. Với sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô (cũ) những công nhân Việt Nam và cả những công nhân Liên Xô cùng chung sức, đồng lòng xây dựng nên nhà máy, mang ánh sáng kì diệu của điện đến nhiều nơi trên đất nước chúng ta. Cũng như vậy, sự đoàn kết các dân tộc trên đất nước Việt Nam đã khiến chúng ta thời nào cũng đương đầu và chiến thắng những lực lượng xâm lược to lớn hơn, được trang bị vũ khí và phương tiện hiện đại hơn.
Đoàn kết còn làm tăng sức mạnh trí tuệ. Chính sự đoàn kết trong nghiên cứu khoa học là nguồn gốc của biết bao thành tựu kĩ thuật. Nhóm kiến trúc sư trẻ do kiến trúc sư Hoàng Thúc Hào làm trưởng nhóm đã được giải thưởng thế giới năm 1994 về quy hoạch đổi mới làng gốm Bát Tràng. Trong một lần phỏng vấn, nhóm trưởng Hoàng Thúc Hào có nói: “Một trong những nguyên nhân thành công cơ bản là sự thương yêu đoàn kết của toàn nhóm”. Quả thật không sai.
Muốn đoàn kết được các dân tộc trong một nước thì các dân tộc, không phân biệt là dân tộc lớn hay dân tộc nhỏ, đều phải tôn trọng, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Nhà nước cần phải ưu tiên tiền của, cơ sở vật chất kỹ thuật cho các dân tộc vùng xa vùng sâu để họ phát triển kinh tế, văn hóa, tiến kịp các dân tộc vùng xuôi. Các dân tộc vùng xuôi cũng dần góp phần xây dựng miền núi, các dân tộc sống trên cùng một nước phải hòa nhập với nhau để xây dựng đất nước vững mạnh. Nhưng một đất nước dù lớn mạnh đến đâu, sống trên cùng hành tinh này cũng không thể tách rời nhân loại mà có thể phát triển phồn vinh mãi được. Các nước cứ tranh chấp nhau liên miên thì trái đất này cũng chẳng có hòa bình hạnh phúc. Cho nên các nước phải đoàn kết với nhau.
Hiểu được câu nói của Bác Hồ, học sinh chúng ta cần phải áp dụng câu nói đó vào thực tế, rèn luyện thường xuyên. Riêng em, em thấy mình phải luôn có ý thức rèn luyện tinh thần đoàn kết trong công việc của lớp, của trường, cùng nhau xây dựng một tập thể vững mạnh. Trong cuộc sống ở gia đình, phường xóm cũng vậy, phải luôn luôn có ý thức đoàn kết đúng đắn.
Cho đến nay, lời khuyên này vẫn còn nguyên giá trị. Mỗi người dân Việt Nam cần phải luôn nhớ thực hiện những lời Bác Hồ dạy.
Từ ngàn xưa, dân tộc ta luôn coi trọng tinh thần đoàn kết. Đó chính là sức mạnh đã giúp dân tộc ta vững bước đến ngày nay cho dù đã trải qua bao nhiêu khó khăn, thử thách. Chính vì vậy, tại Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ nhất tổ chức ở Hà Nội tháng 4 năm 1955, Bác Hồ có nói: “Đoàn kết là sức mạnh vô địch”. Câu nói tuy ngắn gọn, dễ hiểu, chính xác nhưng là một chân lý tồn tại muôn đời.
“Đoàn kết” là tập hợp các phần tử lẻ tẻ hoặc các bộ phận thành một khối thống nhất. Song thống nhất không có nghĩa là không đấu tranh với những biểu hiện sai trái của mỗi thành viên. Ví như ở cơ quan, đơn vị của chúng ta đoàn kết chính là yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau, cùng hướng tới mục tiêu phấn đấu tốt, đồng thời biết góp ý, phê phán những khuyết điểm của các đồng chí, anh chị em cùng tiến bộ. Đoàn kết được thể hiện bằng động cơ, mục đích đúng đắn vì lợi ích tập thể phù hợp với sự phát triển chung của xã hội. Nếu tập hợp lại chỉ vì lợi ích nhỏ hẹp của tập thể, lợi ích nhóm mà đi ngược lại sự phát triển chung của xã hội thì đó là tư tưởng cục bộ, là chủ nghĩa cá nhân.
Đoàn kết là sức mạnh vô địch. Lịch sử của đất nước Việt Nam trải qua bao nhiêu năm là gắn với bấy nhiêu năm chiến đấu để bảo vệ đất nước. Có lẽ sẽ không ai quên trang sử vẻ vang với một nghìn năm Bắc thuộc với những cuộc đấu tranh: Từ khởi nghĩa hai bà Trưng, bà Triệu đến Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn mười hai sứ quân. Rồi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng hay cuộc kháng chiến chống Tống của Lý Thường Kiệt và cả Hưng Đạo vương – Trần Quốc Tuấn ba lần đánh thắng quân Mông – Nguyên … Nhưng có phải kể đến cuộc chiến đấu khốc liệt nhất đó là kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. Dù cho là cuộc chiến đấu nào, bên cạnh tài năng lãnh đạo của những con người kiệt xuất, còn có sự đoàn kết từ quân đến dân trên dưới một lòng chống lại kẻ thù. Nhờ vậy, dân tộc ta mới có được nền hòa bình và hạnh phúc như ngày hôm nay.
Câu nói của Bác Hồ mặc dù ra đời cách nay hơn nửa thế kỉ nhưng giá trị của nó vẫn còn nguyên và mang giá trị hiện thực sâu sắc. Ngày nay, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hơn lúc nào cần phải quán triệt câu nói của Bác Hồ, để tất cả mọi người cùng chung tay góp sức xây dựng nước Việt Nam giàu đẹp như Bác Hồ hằng mong ước.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, chúng ta đã đối mặt với không biết bao nhiêu kẻ thù máu mặt. Từ đế quốc Pháp, Mỹ cho đến những cường quốc đi đến đâu cỏ không mọc lên được đến đây như quân Mông Cổ.. Nhưng chúng ta hết lần này đến lần khác mạnh mẽ đứng lên chống lại quân cướp nước gian ác, trắng trợn và lần nào cũng bảo toàn được trọn vẹn lãnh thổ nước nhà. Vậy đã bao giờ ta tự hỏi sức mạnh thần kì của một dân tộc nhỏ bé ấy từ đâu mà có? Sức mạnh của dân tộc Việt không gì khác, được kết lại thành từ tinh thần đoàn kết, gắn bó của quân dân và toàn dân tộc. Như Bác Hồ đã từng dạy: “Đoàn kết là sức mạnh vô địch.”
Vậy thế nào là đoàn kết? Đoàn kết là sự liên kết, gắn bó và tương trợ lẫn nhau giữa những con người. Đó là trạng thái tinh thần xuất phát từ tình yêu thương, sự gắn bó, đồng cảm giữa con người với con người trong một xã hội. Đoàn kết có một tác động mạnh mẽ tới hoạt động cũng như ý chí và kết quả của hành động của con người, là nguồn sức mạnh tập thể to lớn mà khó có một thế lực nào có thể làm rung chuyển được.
Tại sao tinh thần đoàn kết lại làm nên sức mạnh to lớn? Trước tiên, đoàn kết gắn kết sức mạnh của các cá nhân trong một cộng đồng, tập thể. Ông cha ta từng dạy:
Quả đúng như vậy. So với sức mạnh cá nhân thì sức mạnh tập thể vững vàng hơn, to lớn hơn và chắc chắn hơn. Hơn nữa, đoàn kết tạo ra sự nhất trí, đồng lòng giữa con người, tạo ra ưu thế trong làm việc, trong cuộc sống. Mọi người cùng hướng đến một mục tiêu chung thì hiệu quả của công việc cũng được nâng lên gấp bội. Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta từ hàng ngàn năm nay còn ngời sáng tinh thần đoàn kết toàn dân của Hội nghị Diên Hồng đời Trần. Vua Trần anh minh nhân từ, Tiết chế quốc công Hưng Đạo Vương tài ba đã dựa vào tinh thần toàn dân đoàn kết nhất trí mà ba lần đánh tan quân xâm lược Nguyên, tạo nên hào khí Đông A của đất Việt mãi còn ngời sáng. Tiếng hô “Quyết đánh” của các bô lão, tiếng vang dậy đất “Sát Thát” của ba quân, “Lá cờ thêu sáu chữ vàng’’ của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản… chính là thể hiện đậm nét khối đoàn kết toàn dân đó. Sau nữa, khi cả một tập thể, cộng đồng đoàn kết, đồng tâm, đồng lòng, cùng nhau hợp sức sẽ phát huy được thế mạnh của trí tuệ và năng lực tập thể.
Câu nói” Đoàn kết là sức mạnh vĩ đại “ của Bác là hoàn toàn đúng đắn, xuất phát từ chính thực tiễn cũng như với tầm nhìn của một người có tư tưởng vĩ đại. Sức mạnh ở đây có thể là sức mạnh về vật chất, song cũng có thể là sức mạnh về tinh thần. Trong bất kì một công việc gì, trước hết chúng ta cần có niềm tin và động lực thì mới có thể thực hiện nó. Công việc đặt ra càng khó khăn thì càng cần có sức mạnh tinh thần để thôi thúc, làm động lực thúc đẩy con người hành động. Khi ta tin tưởng mãnh liệt vào một mục tiêu gì đó thì chúng ta sẽ có một động lực to lớn từ bên trong thôi thúc chúng ta hành động, đó chính là cơ sở của mọi chiến thắng. Bởi vậy mà khi có sự đoàn kết thì những công việc, những mục đích dẫu có khó khăn đến mấy thì chúng ta cũng có thể vượt qua, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng nhấn mạnh về sức mạnh tinh thần này trong những câu thơ sau:
Tinh thần đoàn kết là yếu tố không thể thiếu trong xã hội loài người. Trong cuộc sống cần đề cao tinh thần đoàn kết, sự hợp tác giữa những con người vì mục đích chung, bởi sức mạnh của con người to lớn nhưng vẫn là hữu hạn, trước những công việc lớn, quá sức của chúng ta thì cần có sự chung tay giúp sức giữa những người cộng sự. Sự đoàn kết, hợp tác ấy sẽ tạo ra hiệu quả công việc cao, thành quả mà ta đón nhận cũng có giá trị hơn, bởi đó là kết tinh của quá trình làm việc tập thể.
Đoàn kết không chỉ là truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam mà còn là một trong những cách thức để gắn kết con người với con người, xây dựng một cuộc sống giàu đẹp hơn.
Dân tộc Việt Nam có nhiều truyền thống quý báu. Một trong số đó là đoàn kết. Tinh thần đoàn kết đem lại sức mạnh lớn lao cho dân tộc. Điều đó đã được đúc kết trong câu: “Đoàn kết là sức mạnh vô địch”.
“Đoàn kết” nghĩa là những cá nhân riêng rẽ cùng hợp sức lại với nhau. “Sức mạnh” là khả năng tác động mạnh mẽ đến những người khác, đến sự vật, gây tác dụng ở mức cao. Câu nói khẳng định giá trị của tinh thần đoàn kết đem đến cho con người.
Mỗi người sinh ra không ai có thể sống cô độc. Mỗi người đều cần có sự hòa nhập với cộng gia đình và cộng đồng. Đôi khi, có những việc làm cần đến sự giúp đỡ từ những người xung quanh. Đoàn kết là yếu tố đi đầu dẫn đến mọi thành công. Nhờ có tinh thần đoàn kết sẽ tạo ra một sức mạnh to lớn, giúp mỗi người vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống.
Lịch sử của đất nước Việt Nam trải qua bao nhiêu năm là gắn với bấy nhiêu năm chiến đấu để bảo vệ đất nước. Có lẽ sẽ không ai quên trang sử vẻ vang với một nghìn năm Bắc thuộc với những cuộc đấu tranh: Từ khởi nghĩa hai bà Trưng, bà Triệu đến Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn mười hai sứ quân. Rồi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng hay cuộc kháng chiến chống Tống của Lý Thường Kiệt và cả Hưng Đạo vương – Trần Quốc Tuấn ba lần đánh thắng quân Mông – Nguyên … Nhưng có phải kể đến cuộc chiến đấu khốc liệt nhất đó là kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. Dù cho là cuộc chiến đấu nào, bên cạnh tài năng lãnh đạo của những con người kiệt xuất, còn có sự đoàn kết từ quân đến dân trên dưới một lòng chống lại kẻ thù. Nhờ vậy, dân tộc ta mới có được nền hòa bình và hạnh phúc như ngày hôm nay.
Đó là trang sử hào hùng và không ai mãi ngủ quên trong quá khứ. Hiện tại hôm nay, trong những ngày tháng đầy giông bão của năm 2023 – dân tộc Việt Nam đã biết học tập tấm gương của ông cha ta. Toàn dân đã đoàn kết cùng nhau chống lại dịch bệnh Covid-19 đang kéo dài. Tinh thần tương thân tương ái hỗ trợ giúp đỡ về vật chất dành cho những bác sĩ, y tá tại các bệnh viện. Sự giúp đỡ đến những người khó khăn: cây ATM gạo, ATM khẩu trang, điểm phát đồ ăn miễn phí… Đặc biệt là toàn dân tin tưởng vào phương pháp phong dịch của Đảng và Nhà nước. Điều đó cũng thể hiện được tinh thần đoàn kết một lòng của nhân dân.
Advertisement
Đối với tôi – một học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường. Việc ý thức được vai trò của đoàn kết là vô cùng quan trọng. Điều đó giúp tôi có thêm sức mạnh từ bạn bè để hoàn thành tốt mục tiêu của bản thân. Cũng như nhận được sự yêu thương từ những người xung quanh khi biết giúp đỡ người khác. Đoàn kết trong học tập, lao động chính là việc làm cụ thể nhất của mỗi học sinh.
Tóm lại, đoàn kết đoàn kết chính là cội nguồn của sức mạnh, cũng là yếu tố quan trọng trong cuộc đấu tranh sinh tồn và phát triển của con người. Mỗi người cần ý thức được điều đó để duy trì và phát huy truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Tinh thần đoàn kết từ lâu đã trở thành một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam: “Đoàn kết là sức mạnh vô địch”.
Đầu tiên có thể hiểu đơn giản, đoàn kết là những cá nhân riêng rẽ hợp sức lại với nhau. “Sức mạnh” là khả năng tác động mạnh mẽ đến sự vật, hiện tượng khác gây ra một tác động lớn. Chính nhờ có sự đoàn kết sẽ tạo ra một sức mạnh to lớn giúp con người vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.
Tinh thần đoàn kết đã được thể hiện từ trong cuộc sống lao động hàng ngày đến những năm tháng chiến đấu bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Đất nước Việt Nam đã trả qua hàng nghìn năm dưới ách đô hộ của các cường quốc. Từ các triều đại phong kiến phương Bắc đến thực dân Pháp, đế quốc Mĩ. Nhưng khi đối đầu với bất cứ kẻ thù nào, nhân dân ta cũng đồng lòng để đánh tan kẻ thù ấy. Từ khởi nghĩa hai bà Trưng, bà Triệu đến Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn mười hai sứ quân. Rồi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng hay cuộc kháng chiến chống Tống của Lý Thường Kiệt và cả Hưng Đạo vương – Trần Quốc Tuấn ba lần đánh thắng quân Nguyên – Mông…
Đến ngày nay, dân tộc ta đã thể hiện tinh thần đoàn kết trong đại dịch Covid-19. Khi nhiều cường quốc trên thế giới phải điêu đứng trước dịch bệnh, thì Việt Nam vẫn tự hào là nước kiểm soát dịch bệnh tốt. Những biện pháp kiểm soát dịch bệnh, chính sách hỗ trợ người chịu ảnh hưởng bởi đại dịch… của nhà nước. Những hành động hỗ trợ thể hiện tinh thần tương thân tương ái của người dân. Những hành động thể hiện trách nhiệm cộng đồng của các y bác sĩ… Tất cả đều đã thể hiện được tinh thần đoàn kết. Thật tự hào khi Việt Nam là nước dám lựa chọn đánh đổi phát triển kinh tế để bảo vệ tính mạng của người dân.
Như vậy, sức mạnh của đoàn kết là vô cùng to lớn. Chính vì vậy, đoàn kết không chỉ ở phạm vi quốc gia, dân tộc. Mà cần phải tồn tại ở mọi đơn vị, từ lớn đến bé. Thậm chí, là sự đoàn kết của toàn bộ nhân loại để chống lại dịch bệnh, chiến tranh và thiên tai.
Bên cạnh đó vẫn còn không ít những người trong xã hội luôn tìm cách gây rối, chống phá và tìm cách chia rẽ đoàn kết dân tộc. Trong các cuộc chiến tranh có biết bao nhiêu người dân Việt Nam vì vinh quang phú quý hay bảo toàn mạng sống mà sẵn sàng bán đứng tổ quốc, làm tay sai cho kẻ thù xâm lược. Ở xã hội hiện tại có biết bao con người lan truyền những tin đồn thất thiết nhằm chống phá cách mạng, gây hoang mang lòng dân… Đó chính là những hành vi đáng lên án và cần tránh xa.
Tóm lại, câu “Đoàn kết là sức mạnh vô địch” là hoàn toàn đúng đắn. Mỗi người hãy ghi nhớ điều đó để có thể đóng góp một phần sức mạnh vào làn sóng đoàn kết mạnh mẽ của dân tộc.
Có ai đó đã từng nói rằng: “Nơi nào có đoàn kết, nơi đó có chiến thắng” cho thấy được đoàn kết có vai trò to lớn. Bởi vậy mà Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Đoàn kết là sức mạnh vô địch”.
Đầu tiên, “đoàn kết” là sự gắn kết, sự liên kết bền chặt giữa các cá nhân trong một tập thể, “sức mạnh” là khả năng tác động mạnh mẽ đến những người khác, đến sự vật, gây tác dụng ở mức cao. “Vô địch” có nghĩa là không có đối thủ nào đánh bại được. Như vậy, “Đoàn kết là sức mạnh vô địch” khẳng định rằng chính nhờ có sự đoàn kết sẽ tạo ra một sức mạnh to lớn giúp con người vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.
Bất cứ công việc nào, nếu chỉ làm một mình, có thể mất rất nhiều thời gian mới hoàn thành, thậm chí là không thể hoàn thành. Chỉ khi mỗi người biết hợp sức, đồng lòng lại cùng nhau mới có thể giải quyết mọi khó khăn. Mỗi người cùng chung tay sẽ có thể “góp gió thành bão” – làm nên nguồn sức mạnh lớn lao.
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống đoàn kết. Lịch sử của dân tộc Việt Nam trải qua những năm tháng đấu tranh để bảo vệ đất nước. Từ các triều đại phong kiến phương Bắc đến thực dân Pháp, đế quốc Mĩ. Nhưng khi đối đầu với bất cứ kẻ thù nào, nhân dân ta cũng đồng lòng để đánh tan kẻ thù ấy. Cho đến ngày hôm nay, tinh thần đoàn kết còn gắn liền với tấm lòng tương thân tương ái. Đại dịch Covid-19 xảy ra khiến cho thế giới phải gánh chịu nhiều đau thương, trong đó có cả Việt Nam. Dù vậy, chúng ta vẫn vượt qua khi có được tinh thần đoàn kết. Đảng và Nhà nước đã ban hành các quy định để ứng phó với dịch bệnh. Các y bác sĩ xung phong lên tuyến đầu chống dịch không quản ngại cả đều đã thể hiện được tinh thần đoàn kết. Mọi người dân đều nghiêm túc chấp hành những quy định về phòng chống dịch bệnh. Tất cả đã thể hiện được sự đồng lòng của của toàn thể đất nước, với niềm tin rằng một ngày không xa chúng ta sẽ chiến thắng đại dịch.
Bên cạnh đó, vẫn còn những người có lối sống cá nhân. Họ luôn xa rời với lợi ích của tập thể, sống vị kỉ và không có tinh thần đoàn kết. Chúng ta cần phải lên án, tránh xa những hành động như vậy. Còn đối với một học sinh, việc ý thức được vai trò của đoàn kết là vô cùng quan trọng. Điều đó giúp tôi có thêm sức mạnh từ bạn bè để hoàn thành tốt mục tiêu của thân.
Có thể khẳng định rằng, “Đoàn kết là sức mạnh vô địch” và con người cần hiểu được điều đó để tận dụng tốt sức mạnh đó trong cuộc sống.
Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Nhà Văn Nam Cao Dàn Ý &Amp; 7 Bài Văn Mẫu Lớp 8 Hay Nhất
TOP 7 bài Thuyết minh về nhà văn Nam Cao SIÊU HAY, kèm theo dàn ý chi tiết. Qua đó, giúp các em học sinh lớp 8 hiểu rõ hơn về tiểu sử, phong cách nghệ thuật, cùng những tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Nam Cao.
1. Mở bài
Giới thiệu khái quát về tác giả Nam Cao.
2. Thân bài
* Cuộc đời nhà văn Nam Cao:
Nam Cao (1917 – 1951), tên khai sinh Trần Hữu Tri.
Quê hương: làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân, tỉnh Hà Nam.
Học xong bậc thành chung vào Sài Gòn kiếm sống, sau 3 năm lại trở về quê.
Dạy học ở ngoại ô Hà Nội, chật vật xoay sở bằng nghề viết văn, làm gia sư.
Năm 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc.
1946 là phóng viên đoàn Nam tiến vào Nam Trung Bộ
1947 – 1950 lên Việt Bắc tham gia chiến dịch Biên Giới. 1951 bị giặc phục kích sát hại.
* Con người của tác giả Nam Cao:
Bề ngoài lạnh lùng, vụng về, ít nói nhưng nội tâm phong phú.
Có tấm lòng đôn hậu, chan chứa yêu thương.
* Sự nghiệp sáng tác của tác giả Nam Cao:
Quan điểm nghệ thuật tiến bộ, tự giác, hệ thống và nhất quán.
Tư tưởng nhân đạo là yêu cầu tất yếu, đòi hỏi cao sự tìm tòi sáng tạo, nhà văn phải có lương tâm.
Các đề tài chính: người trí thức nghèo, người nông dân nghèo và văn xuôi kháng chiến.
Phong cách nghệ thuật độc đáo, quan tâm tới đời sống tinh thần con người.
3. Kết bài
Khẳng định những giá trị và đóng góp to lớn mà tác giả Nam Cao đóng góp cho nền văn học nước nhà.
Nhà văn Nam Cao sinh năm 1915, tên khai sinh là Trần Hữu Tri, quê ở làng Đại Hoàng (nay thuộc xã Hoà Hậu, huyện Lí Nhân, tỉnh Hà Nam).
Khi còn nhỏ, Nam Cao ở làng và thành phố Nam Định. Từ 1936, bắt đầu viết văn in trên các báo: Tiểu thuyết thứ bảy, ích hữu… Năm 1938, dạy học tư ở Hà Nội và biết báo. Năm 1941, ông dạy học tư ở Thái Bình. Năm 1942, ông trở về quê, tiếp tục viết văn. Năm 1943, Nam Cao gia nhập Hội Văn hoá cứu quốc. Cách mạng Tháng Tám 1945, ông tham gia cướp chính quyền ở phủ Lí Nhân và được cử làm chủ tịch xã. Năm 1946, ông ra Hà Nội, hoạt động trong Hội Văn hoá cứu quốc và là thư kí toà soạn tạp chí Tiên phong của Hội. Cùng năm đó, ông tham gia đoàn quân Nam tiến với tư cách phóng viên, hoạt động ở Nam Bộ. Sau đó lại trở về nhận công tác ở Ti Văn hoá Nam Hà. Mùa thu 1947, Nam Cao lên Việt Bắc, làm phóng viên báo Cứu quốc và là thư kí toà soạn báo Cứu quốc Việt Bắc. Năm 1950, ông nhận công tác ở tạp chí Văn nghệ (thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam) và là Uỷ viên Tiểu ban Văn nghệ Trung ương. Năm 1951, ông tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp ở khu III, bị địch phục kích và hi sinh.
Những sáng tác của Nam Cao trước cách mạng tập trung vào hai đề tài chính: Cuộc sống của những người tiểu tư sản trí thức nghèo và cuộc sống của người nông dân. Dù viết về đề tài nào thì điều mà Nam Cao quan tâm trước tiên là tình trạng người lao động bị tha hóa biến chất vì bát cơm manh áo.
Ở đề tài tiểu tư sản trí thức nghèo, đáng chú ý nhất là các tác phẩm “Trăng sáng”, “Đời thừa”, “Mua nhà “, “Truyện tình”, “Quên điều độ”, “Nước mắt”, “Những truyện không muốn viết”, … đặc biệt là tiểu thuyết “Sống mòn” (1944). Trong những tác phẩm này, Nam Cao đã miêu tả hết sức chân thực và cảm động tình trạng nghèo khổ, sống dở, chết dở của người trí thức nghèo. Qua đó, tác giả còn đặc biệt đi sâu vào những tấn bi kịch tâm hồn của họ. Đó là tấn bi kịch dai dẳng, thầm lặng mà đau đớn của những tri thức có ý thức sâu sắc về giá trị sự sống và nhân phẩm, có hoài bão lớn về một sự nghiệp tinh thần cao cả, nhưng lại bị gánh nặng cơm áo, và cuộc sống tàn nhẫn đầy rẫy bất công vô lý đầy vào cảnh “chết mòn” về tinh thần và sống cuộc “Đời thừa”. Phê phán cái xã hội phi nhân đạo đã bóp nghẹt sự sống và tàn phá tâm hồn con người, Nam Cao đồng thời cũng thể hiện niềm khao khát tới một cuộc sống đẹp đẽ xứng đáng với con người.
Về đề tài người nông dân: là nhà văn sinh ra và lớn lên nơi chốn bùn lầy nước đọng, Nam Cao hiểu biết khá sâu sắc cuộc sống của những con người thấp cổ bé họng này. Ông đã để lại chừng hai chục truyện ngắn có giá trị về tài nông dân, đáng chú ý là “Lão Hạc”, “Chí phèo”, “Trẻ con không được ăn thịt chó”, “Mua danh”, “Tư cách mõ”, “Một bữa no”, “Một đám cưới”, “Dì Hảo”, “Điếu văn”, “Lang Rận”, “Nửa đêm”, … Qua những tác phẩm trên, Nam Cao không chỉ mô tả một cách thấm thìa và cảm động những số phận tăm tối, hẩm hiu, bị ức hiếp, bị tha hoá, lăng nhục mà còn phát hiện và khẳng định phẩm chất lương thiện đẹp đẽ của họ ẩn giấu đằng sau những tâm hồn tưởng như tăm tối và cằn cỗi đó. Chiều sâu mới mẻ của ngòi bút hiện thực và nhân đạo của Nam Cao chính là ở đấy.
Cũng như các nhà văn tiểu tư sản khác chưa nắm được chân lý cách mạng, Nam Cao đã không thấy được khả năng đổi đời của người nông dân và triển vọng của xã hội. Song trong truyện ngắn “Điếu văn” (1944), Nam Cao đã viết những dòng dự báo đầy hào hứng “Cuộc đời không thể cứ mù mịt mãi thế này đâu. Tương lai phải sáng sủa hơn. Một rạng đông đã báo rồi!”. Đó là lời chào đón chân thành tha thiết tia sáng rạng đông đang báo hiệu ở chân trời lúc bấy giờ.
Sau cách mạng tháng Tám: Nam Cao là một trong số ít nhà văn đã đến với cách mạng ngay từ đầu. Năm 1948, Ông được kết nạp vào Đảng, ông tham gia Hội văn hoá cứu quốc, tích cực hoạt động cách mạng, kháng chiến, làm Thư ký Tạp chí “Tiền Phong”. Năm 1947 làm thư ký tòa soạn báo “Cứu quốc Việt Bắc”. Năm 1950 nhận công tác ở tạp chí “Văn nghệ”.
Nam Cao được xem là một trong những cây bút tiêu biểu nhất trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Thời kỳ này, ông viết được nhiều tác phẩm có giá trị như: Nhật ký “Ở rừng” (1948) “Chuyện biên giới” (1950), đặc biệt là truyện ngắn “Đôi mắt” (1948) ra đời giữa lúc giới văn nghệ đang vất vả “nhận đường” là một thành công xuất sắc của văn nghệ kháng chiến lúc đó. Thông qua việc phê phán một nghệ sĩ có “đôi mắt” lệch lạc trong việc nhìn người, nhìn đời, có lối sống trưởng giả, kênh kiệu, nhởn nhơ, lạc lõng giữa cuộc kháng chiến sôi nổi của toàn dân tộc và khẳng định một người nghệ sĩ mới dứt khoát từ bỏ con người cũ, lối sống cũ, và quyết tâm “cách mạng hóa tư tưởng, quần chúng hóa sinh hoạt”, trở thành người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá, “Đôi mắt” xứng đáng là một tuyên ngôn nghệ thuật của tầng lớp văn nghệ tiểu tư sản đi theo kháng chiến.
Nam Cao có biệt tài trong việc diễn tả phân tích tâm lý con người. Ngôn ngữ của Nam Cao sống động uyển chuyển, tinh tế rất gần với lời ăn, tiếng nói của quần chúng. Ghi nhận những đóng góp của Nam Cao đối với nền văn học nước nhà, Nhà nước đã tặng thưởng ông giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học – nghệ 1 thuật (đợt I – năm 1996). Nam Cao xứng đáng là lá cờ đầu của truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Nam Cao (1915 – 1951) là một trong số những nhà văn lớn nhất của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Sáng tác của ông đã vượt qua những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng ngời sáng. Thời gian càng lùi xa, những tác phẩm của ông càng bộc lộ ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo.
Nam Cao là nhà văn lớn nhất của trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945. Trong số các nhà văn hiện thực, ông là cây bút có ý thức sâu sắc nhất về quan điểm nghệ thuật của mình. Ông phê phán khá toàn diện và triệt để tính chất thoát ly, tiêu cực của văn chương lãng mạn đương thời, coi đó là thứ “ánh trăng lừa dối”. Đồng thời yêu cầu nghệ thuật chân chính phải trở về với đời sống, phải nhìn thẳng vào sự thật, nói lên được nỗi thống khổ của hàng triệu nhân dân lao động lầm than (Giăng sáng).
Nam Cao là nhà văn của chủ nghĩa hiện thực tâm lý. Điều đó có quan hệ mật thiết tới quan niệm về con người của ông. Nam Cao từng viết trong “Sống mòn”: “Sống tức là cảm giác và tư tưởng. Sống cũng là hành động nữa, nhưng hành động chỉ là phần phụ: có cảm giác, có tư tưởng mới sinh ra hành động”. Một quan niệm về con người như thế đã chi phối thủ pháp chủ nghĩa hiện thực tâm lý của Nam Cao. Sự chú ý đặc biệt tới thế giới bên trong của con người đã thường xuyên chế ước hứng thú nghệ thuật ngày càng tăng của nhà văn đối với tính chất nhiều dự định của cá tính con người, động cơ nội tại của hành vi nhân vật và quan hệ phức tạp của nó với hiện thực xung quanh.
Đối với Nam Cao, cái quan trọng hơn cả trong nhiệm vụ phản ánh chân thật cuộc sống là cái chân thật của tư tưởng, của nội tâm nhân vật. Xét tới cùng, cái quan trọng nhất trong tác phẩm không phải là bản thân sự kiện, biến cố tự thân mà là con người trước sự kiện, biến cố. Vì vậy, trong sáng tác của Nam Cao, hứng thú của những chi tiết tâm lý thường thay thế cho hứng thú của chính bản thân các sự kiện, biến cố. Như vậy, nguyên tắc các sự kiện, biến cố, tình tiết chỉ giữ vai trò “khiêu khích” các nhân vật, để cho nhân vật bộc lộ những nét tâm lý, tính cách của mình. Cho nên, trong “Mua nhà”, Nam Cao không tập trung miêu tả sự việc mua được cái nhà gỗ rẻ mà tập trung xoáy sâu vào những suy nghĩ, dằn vặt, những ân hận, dày vò của nhân vật người kể chuyện về tình trạng “hạnh phúc chỉ là một cái chăn quá hẹp. Người này co thì người kia bị hở”. “Đời thừa” cũng không hướng vào việc miêu tả nỗi khổ áo cơm mà tập trung thể hiện phản ứng tâm lý của con người trước gánh nặng áo cơm làm mai một tài năng và xói mòn nhân cách. Cho nên, trước khi bán một con chó, lão Hạc phải trải qua biết bao băn khoăn, day dứt, dằn vặt và khi buộc phải bán nó thì lão vô cùng ân hận, tột cùng đau đớn, tuổi già mà khóc hu hu như con nít. Chí Phèo – con quỷ dữ của làng Vũ Đại đã ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, đập đầu rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say, như là con vật sống trong vô thức, vậy mà sau lần gặp Thị Nở ở bờ sông, cứ “vẩn vơ nghĩ mãi”. Còn thị Nở, người đàn bà vô tâm có cái tật đột nhiên muốn ngủ không sao chữa được, về nhà lên giường muốn ngủ hẳn hoi mà vẫn không sao ngủ nổi, thì cứ “lăn ra lăn vào”. Nam Cao chẳng những miêu tả sinh động những chi tiết, những biểu hiện tâm lý nhỏ nhặt nhất mà còn theo dõi, phân tích quá trình tích tụ của chúng dẫn tới sự nảy sinh những phẩm chất mới trong tâm hồn con người. Không chỉ dừng lại ở những khoảnh khắc, Nam Cao đã miêu tả thành công những quá trình tâm lý của nhân vật. Ngòi bút của ông tỏ ra có biệt tài trong khi miêu tả những trạng thái tâm lý phức tạp, những hiện tượng lưỡng tính dở say, dở tỉnh, dở khóc, dở cười, mấp mé ranh giới giữa thiện với ác, giữa hiền với dữ, giữa con người với con vật… Nam Cao đã khắc phục được tính phiến diện, đơn giản trong việc miêu tả tâm lí nhân vật. Qua ngòi bút của ông, tâm lý con người được thể hiện một cách phong phú đa dạng với nhiều sắc thái tinh vi.
Trong sáng tác của Nam Cao, tâm hồn con người là sân khấu bi kịch và bi hài kịch của những xung đột tư tưởng, ý tưởng. Thi pháp chủ nghĩa hiện thực tâm lý của Nam Cao thích ứng với việc nghiên cứu, phân tích và khám phá bằng nghệ thuật tâm lý của nhân vật hơn là việc phân tích và miêu tả những biến cố, xung đột đích thực của chính bản thân đời sống xã hội. Đối với Nam Cao, sự phân tích tâm lý hầu như là điều kiện cơ bản nhất của việc thể hiện con người theo phương pháp hiện thực có chiều sâu của ông. Nam Cao đã lấy thế giới nội tâm nhân vật làm đối tượng chính của sự miêu tả. Ông đã hướng ngòi bút của mình vào việc khám phá con người trong con người miêu tả và phân tích mọi chiều sâu, mọi chuyển biến trong thế giới tâm hồn của nhân vật. Chính vì vậy mà đối với ông, việc miêu tả ngoại hình chỉ có ý nghĩa khi nó nhằm thể hiện và làm nổi rõ bộ mặt tinh thần của nhân vật. Những cảnh thiên nhiên cũng chỉ có lý do tồn tại khi nó gắn liền với tâm trạng của con người. Giữa những bức tranh phong cảnh thoáng nhìn tưởng chỉ thuần túy những cảnh vật thiên nhiên, nhà văn đã khéo léo treo lên những mảnh tâm hồn của nhân vật.
Nam Cao mong muốn khai thác những vấn đề của cuộc sống không phải ở bề rộng mà là ở bề sâu. Thoát khỏi cách nói chút ít về tất cả, ông đã tập trung bút lực vào việc miêu tả nội tâm của nhân vật. Nhà hiện thực chủ nghĩa Nam Cao đã mở rộng việc phản ánh hiện thực bằng cách khai thác sâu sắc thế giới tâm hồn của con người. Qua ngòi bút ông, thế giới bên trong của con người, kể cả những “con người bé nhỏ”, thậm chí cả những kẻ khốn khổ tủi nhục nhất như Chí Phèo và Thị Nở cũng là cả một vũ trụ bao la! Đối với Nam Cao, việc phân tích tâm lí nhân vật không tách rời việc phân tích cuộc sống xã hội nói chung. Thông qua việc miêu tả, phân tích tâm lý để thể hiện những mâu thuẫn, xung đột xã hội, Nam Cao đã mở ra một khuynh hướng phân tích mới cho phương pháp hiện thực chủ nghĩa trong văn học Việt Nam. Có thể nói, cảm hứng phân tích phê phán thấm nhuần trong toàn bộ sáng tác của Nam Cao. Nó là một đặc điểm nổi bật, trở thành “linh hồn”, “cốt tuỷ” chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao.
Cái gốc, nền tảng vững chắc của chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao là chủ nghĩa nhân đạo. Trong truyện ngắn “Đời thừa”, Nam Cao khẳng định: “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả đời người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn”. Như vậy, trong quan niệm của Nam Cao, chủ nghĩa nhân đạo được đặt ra, như một yêu cầu tất yếu đối với những tác phẩm “thật có giá trị”.
Trong mỗi trang văn của Nam Cao đều bộc lộ tấm lòng của một con người đau đời và thương đời da diết. Nam Cao yêu thương những con người bị cuộc đời đày đọa. Xã hội cũ đã làm cho ông đau xót khi mà đa số những nhân vật của ông bị đẩy vào cảnh khốn cùng, không đạt được gì trong cuộc đời, không có đủ điều kiện để phát huy những khả năng tiềm tàng ưu việt của mình.
Ông là nhà văn của những người nông dân nghèo khổ và bất hạnh, nhà văn của những người khốn khổ, tủi nhục nhất trong xã hội thực dân phong kiến. Trái tim nhân đạo và cái nhìn sắc sảo của ông đã thấu hiểu những hoàn cảnh thiếu nhân tính làm cho con người bị tha hóa. Viết về những con người dưới đáy của xã hội, Nam Cao đã bộc lộ sự cảm thông lạ lùng của một trái tim nhân đạo lớn. Thế giới, cuộc đời con người, mối quan hệ giữa những con người được nhìn nhận bằng những con mắt của chính họ. Nhà văn, trong những đánh giá và nhận xét, đã xuất phát từ lợi ích và yêu cầu của chính những con người cùng khổ nhất, không có quyền, bị xã hội áp bức, chà đạp xuống tận bùn đen. Ông đã bảo vệ, bênh vực, minh oan, “chiêu tuyết” cho những con người thấp cổ bé họng, bị cuộc đời xua đuổi, hắt hủi, khinh bỉ một cách bất công. Với trái tim đầy yêu thương, ông tin rằng trong tâm hồn của những người không còn được là người, những con người bề ngoài được miêu tả như những con vật vẫn còn nhân tính, vẫn còn những khát khao nhân bản. Ông nhận ra đằng sau những bộ mặt xấu xí đến “ma chê quỷ hờn” của thị Nở (Chí Phèo) của mụ Lợi (Lang Rận) của Nhi (Nửa đêm)… vẫn là một con người, một tâm tính người thật sự, cũng khao khát yêu thương. Và khi được ngọn lửa tình yêu sưởi ấm, những tâm hồn tưởng chừng đã cằn cỗi, khô héo ấy cũng ánh lên những vẻ đẹp với những hồi hộp, vui mừng sung sướng, cũng lườm, nguýt, âu yếm, cũng e lệ, làm duyên theo kiểu cách riêng của họ. Thậm chí, trong đáy sâu tâm hồn đen tối của một kẻ cục súc, u mê như Chí Phèo – một kẻ đã bị cuộc đời tàn phá, huỷ hoại từ nhân hình đến nhân tính – nhà văn vẫn nhìn thấy những rung động thật sự của tình yêu của niềm khao khát muốn trở lại làm người lương thiện. Có thể nói, cùng với việc lên án gay gắt những thành kiến, định kiến tồi tệ, những sự nhục mạ danh dự và phẩm giá con người, chính việc phát hiện ra cái phần con người còn sót lại trong một kẻ lưu manh trân trọng những khao khát nhân bản và miêu tả những rung động trong sáng của những tâm hồn tưởng chừng đã bị cuộc đời làm cho cằn cỗi, u mê đã làm cho Nam Cao trở thành một trong số những nhà văn nhân đạo lớn nhất trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
Nam Cao là nhà văn của những người trí thức nghèo, của những kiếp “Sống mòn” có hoài bão, có tâm huyết, tài năng, muốn vươn lên cao nhưng lại bị chuyện áo cơm ghì sát đất. Nếu như mỗi tác phẩm viết về đề tài người nông dân của Nam Cao đều là sự trả ơn, gửi gắm ân tình với người nghèo khổ thì mỗi trang viết về đề tài người trí thức đều chứa đựng tâm sự, nỗi đau và niềm khát khao cháy bỏng của chính nhà văn.
Ông cũng giống với Xuân Diệu, Thạch Lam ở chỗ đã thức tỉnh sâu sắc về ý thức cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa về ý thức cá nhân trên đời. Họ hết sức nhạy cảm với những kiếp sống nhỏ bé, cơ cực, sống mòn mỏi, lắt lay, quẩn quanh, bế tắc. Những con người không hề biết sống làm vui, không bao giờ biết đến ánh sáng và hạnh phúc. Đến trong ước mơ mà vẫn cứ quẩn quanh không biết mơ ước gì hơn một chuyến tàu đêm vụt đi qua cái phố huyện nghèo (Thạch Lam, Hai đứa trẻ). Xuân Diệu cũng không sao chịu nổi “nỗi đìu hiu của cái ao đời bằng phẳng” (Tỏa nhị kiều) và khao khát: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối/ Còn hơn le lói suốt trăm năm” (Giục giã). Nhưng có lẽ, không ai trong số họ lại đau đớn khôn nguôi, phẫn uất cao độ như Nam Cao trước tình trạng con người không sao thoát khỏi tình trạng sống mòn. Trước cách mạng, không có nhà văn nào có cách nhìn sâu sắc, có tầm triết lý, tổng hợp khái quát cao về tình trạng chết mòn của con người như nhà văn lớn Nam Cao. Mỗi nhân vật của ông là một kiểu đời thừa, một lối sống mòn, một cách chết mòn. Một cuộc sống vô lý, vô ích, vô nghĩa, “chết mà chưa làm gì cả”, “chết trong lúc sống”, “chết mà chưa sống”. Nam Cao không chấp nhận sự sống của con người chỉ là sự tồn tại sinh học. Ông coi đó không phải là cuộc sống xứng đáng của con người: “Có thú vị gì cái lối sống co quắp vào mình, cái lối sống quá ư loài vật, chẳng còn biết một việc gì ngoài cái việc kiếm thức ăn đổ vào dạ dày?”. Cuộc sống xứng đáng với danh hiệu cao quý của con người, theo quan niệm của Nam Cao, là phải có đời sống tinh thần cao đẹp, sống với đầy đủ giá trị của sự sống. Xuất phát từ tư tưởng cao sâu đó, Nam Cao đã đồng cảm sâu sắc và đau đớn vô hạn trước bi kịch của những con người muốn sống có ý nghĩa bằng sự cống hiến của mình mà rốt cuộc phải sống như một kẻ vô ích, một “người thừa”. “Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khao khát làm một cái gì mà nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?” (Đời thừa).
Qua những nhân vật trí thức tâm huyết của mình, những Điền, những Hộ, những Thứ… Nam Cao thể hiện niềm khao khát, một lẽ sống lớn, khao khát một cuộc sống sâu sắc mãnh liệt, có ích và có ý nghĩa. Hộ trong “Đời thừa” hằng tâm niệm: “Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thoả mãn lòng ích kỷ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai của mình” và mơ ước viết được “một tác phẩm thực sự có giá trị làm cho người gần người hơn”. Thứ trong “Sống mòn” đã từng “thích làm một việc gì có ảnh hưởng đến xã hội ngay” và mong muốn đem “những sự đổi thay lớn lao đến cho xứ sở mình”. Hơn một lần Thứ mơ ước: “Mình cũng là một vĩ nhân, một anh hùng, vượt lên trên sự tầm thường để chỉ nghĩ đến một cái gì vĩ đại thôi. Y nghĩ đến những phương kế để xoay ngược lại, đồng thời xếp đặt cho người với người ổn thoả hơn”. Những con người mang hoài bão lớn ấy khi chạm trán với cuộc đời đều nếm trải đắng cay, đau đớn, đều lâm vào tình trạng “sống mòn”. Nhưng dẫu bị “áo cơm ghì sát đất”, tuy “sống mòn” nhưng họ chưa hoàn toàn cạn kiệt hết niềm tin, niềm hi vọng, vẫn khao khát được sống, được cống hiến, được phát triển; vẫn khao khát mỗi cá nhân được phát triển “đến tận độ” để góp vào “công việc tiến bộ chung” của loài người. Cao cả và đẹp đẽ biết bao lý tưởng nhân văn của Nam Cao được gửi gắm qua những dòng suy ngẫm của nhân vật Thứ về sự sống: “Thứ vẫn không thể nào chịu được rằng sống chỉ là làm thế nào cho mình và vợ con mình có cơm ăn, áo mặc thôi. Sống là để làm một cái gì cao đẹp hơn nhiều, cao quý hơn nhiều. Mỗi người sống phải làm thế nào cho phát triển đến tận độ những khả năng của loài người chứa đựng ở trong mình. Phải gom góp sức lực của mình vào công việc tiến bộ chung. Mỗi người chết đi, phải để lại một chút gì cho nhân loại”.
Có thể nói, tư tưởng nhân đạo thấm nhuần trong sáng tác của Nam Cao. Ông là nhà văn đồng tình với khát vọng sống lương thiện và khát vọng được phát huy đến tận độ tài năng của con người. Tư tưởng nhân đạo mới mẻ, phong phú và sâu sắc đó cho thấy nhà văn không chỉ dừng lại ở chỗ tố cáo những thế lực tàn bạo chà đạp quyền sống của con người mà còn đòi hỏi xã hội tạo những điều kiện để con người được sống một cuộc sống thực sự có ý nghĩa.
Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc giai đoạn 1930 – 1945, là một cây bút viết về người nông dân hết sức chân thực, có đóng góp nhiều cho sự thành công của dòng văn học hiện thực Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.
Tên khai sinh của ông là Trần Hữu Tri, sinh năm 1917, mất năm 1951. Quê ở làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Nam Cao là cây bút luôn suy nghĩ, tìm tòi để “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”. Vì thế, đề tài của ông tuy không mới nhưng tác phẩm vẫn có những đặc sắc tâm lý. Tác phẩm của Nam Cao chủ yếu xoay quanh hai đề tài chính: người nông dân và người trí thức tiểu tư sản nghèo, ở đề tài người trí thức tiểu tư sản có những tác phẩm: “Trăng sáng, Đời thừa, Mua nhà, Nước mắt…” và những truyện đáng chú ý khi ông viết về người nông dân như: “Lão Hạc, Chí Phèo, Một bữa no, Lang Rận…”. Có thể nói dù viết về trí thức nghèo hay về người nông dân cùng khổ thì Nam Cao vẫn luôn day dứt, đau đớn trước tình trạng con người bị xói mòn về nhân phẩm, thậm chí huỷ diệt cả nhân tính trong cái xã hội phi nhân đạo đương thời. Nam Cao là người có ý thức trách nhiệm nhất về ngòi bút của mình, suốt cuộc đời lao động văn học, nhà văn luôn suy nghĩ về sống và viết.
Trong nền văn xuôi hiện đại nước ta, Nam Cao là nhà văn có tài năng xuất sắc và một phong cách độc đáo. Ngòi bút của Nam Cao vừa tỉnh táo, sắc lạnh, vừa nặng trĩu suy nghĩ và đằm thắm yêu thương. Văn Nam Cao hết sức chân thực, ông coi sự thực là trên hết, không gì ngăn được nhà văn đến với sự thực, vừa thấm đượm ý vị triết lí và trữ tình. Ông có sở trường diễn tả, phân tích tâm lý con người. Ngôn ngữ trong tác phẩm của ông sống động, uyển chuyển, tinh tế, rất gần với lời ăn tiếng nói của quần chúng. Với một tài năng lớn và giàu sức sáng tạo, Nam Cao đã góp phần quan trọng vào việc cách tân nền văn xuôi Việt Nam theo hướng hiện đại hoá.
Tác phẩm Nam Cao để lại chủ yếu là truyện ngắn, trong số những truyện ngắn viết về người nông dân, thì “Lão Hạc” là một truyện ngắn xuất sắc và tiêu biểu.
Truyện ngắn “Lão Hạc” được đăng báo lần đầu năm 1943. Truyện kể về nhân vật chính – lão Hạc, một lão nông dân nghèo khổ, có phẩm chất trong sạch, vợ lão Hạc mất sớm, để lại lão và cậu con trai, trong nhà tài sản duy nhất của hai cha con lão là một mảnh vườn và “cậu vàng” – con chó do con trai lão mua. Do không đủ tiền cưới vợ, con trai lão chán nản mà làm đơn xin đi mộ phu đồn điền cao su, để lão ở nhà một mình với cậu vàng. Lão Hạc hết sức thương con, lão chăm vườn, làm ăn dành dụm để khi con trai lão về thì cưới vợ cho nó. Thế nhưng, sau một trận ốm nặng, bao nhiêu tiền dành dụm cũng hết, sức khoẻ lão ngày một yếu đi, vườn không có gì để bán, lão Hạc trở nên đói kém hơn, phải lo từng bữa ăn. Lão ăn năn day dứt khi quyết định bán cậu vàng – người bạn thân thiết của lão. Lão gửi số tiền và mảnh vườn cho ông giáo và xin bả chó của Binh Tư để kết thúc cuộc sống túng quẫn của mình. Lão chết một cách đau đớn, nhưng cái chết làm sáng ngời phẩm chất trong sạch của lão Hạc.
Thông qua số phận và cái chết của lão Hạc, Nam Cao đã thể hiện một thái độ trân trọng và cái nhìn nhân đạo đối với lão Hạc nói riêng và người nông dân Việt Nam nói chung – những con người nghèo khổ nhưng sống trong sạch, thà chết chứ không chịu mang tiếng nhục, làm những điều trái với lương tâm cao cả của mình. Nam Cao cũng đã nêu lên một triết lý nhân sinh rằng: Con người chỉ xứng đáng với danh nghĩa con người khi biết trân trọng và chia sẻ, nâng niu những điều đáng quý, đáng thương ở con người. Đồng cảm với những số phận đáng thương, Nam Cao đã lên tiếng thông qua tác phẩm là tiếng nói lên án xã hội đương thời thối nát, bất công, không cho những con người có nhân cách cao đẹp như lão được sống. Tác phẩm “Lão Hạc” cũng mang một giá trị nghệ thuật sâu sắc, thể hiện được phong cách độc đáo của nhà văn Nam Cao.
Tóm lại, nhà văn Nam Cao đã có những đóng góp không nhỏ trong nền văn học Việt Nam. Các tác phẩm của ông đã để lại nhiều giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
Nam Cao tên khai sinh là Trần Hữu Tri. Ông sinh năm 1917, trong một gia đình nông dân tại làng Đại Hoàng, thuộc tống Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay thuộc xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Làng Đại Hoàng nằm trong vùng đồng chiêm trũng, nông dân quanh năm nghèo đói, lại bị bọn cường hào ức hiếp, đục khoét tàn tệ.
Nam Cao là con người duy nhất trong gia đình khá đông con – được ăn học tử tế. Học xong bậc Thành chung, Nam Cao vào Sài Gòn giúp việc cho một hiệu may. Thời kỳ này, ông bắt đầu sáng tác và mơ ước được đi xa, mở mang kiến thức, trau dồi tài năng, xây dựng một sự nghiệp văn học có ích. Nhưng rồi vì ốm yếu, Nam Cao lại trở về quê và thất nghiệp. Sau ông lên Hà Nội, dạy học ở một trường tiểu học tư thục. Nhưng cuộc đời “giáo khổ trường tư” đó cũng không yên: quân Nhật vào Đông Dương, trường của ông phải đóng cửa để làm chuồng ngựa cho lính Nhật. Nhà văn – lại thất nghiệp, sông lay lắt bằng nghề viết văn và làm gia sư, trong khi gia đình ở quê đang ngày càng khốn khó. Năm 1943, Nam Cao tham gia Hội văn hóa cứu quốc. Tháng 11 năm 1951, trên đường vào công tác vùng sau lưng địch thuộc Liên khu III, Nam Cao đã bị địch phục kích bắt được và bắn chết gần Hoàng Đan (thuộc tỉnh Ninh Bình khi đó). Nhà văn ngã xuống giữa lúc ông đang bước vào thời kỳ “chín” mới về tư tưởng và tài năng, hứa hẹn những sáng tác có tầm vóc về thời đại mới.
Trước cách mạng, Nam Cao thường mang nặng tâm sự u uất, bất đắc chí. Đó không chỉ là tâm sự người nghệ sĩ “tài cao, phận thấp, chí khí uất” (thơ Tản Đà), mà còn là nỗi bi phẫn sâu xa của người trí thức giàu tâm huyết trước cái xã hội bóp nghẹt sự sống con người khi đó. Song Nam Cao không vì bất mãn cá nhân mà trở nên khinh bạc, trái lại ông có một tấm lòng thật đôn hậu, chan chứa yêu thương. Đặc biệt, sự gắn bó ân tình sâu nặng với bà con nông dân nghèo khổ ruột thịt ở quê hương là nét nổi bật ở Nam Cao. Chính tình cảm yêu thương gắn bó đó là một sức mạnh bên trong của nhà văn, giúp ông vượt qua những cám dỗ của lối sống thoát ly hưởng lạc, tự nguyện tìm đến và trung thành với con đường nghệ thuật hiện thực “vị nhân sinh”.
Bình sinh, Nam Cao thường day dứt, hối hận vì những sai lầm – có khi chi trong ý nghĩ – của mình. Người trí thức “trung thực vô ngần” (lời Tô Hoài) ấy luôn nghiêm khắc tự đấu tranh bản thân để vượt mình, cố thoát khỏi lối sống tầm thường, nhỏ nhen, khao khát hướng tới “tâm hồn trong sạch và mơ tới những cảnh sống, những con người thật đẹp” (Nhật ký Nam Cao, ghi ngày 31 tháng 8 năm 1950). Có thể nói, giá trị to lớn của sự nghiệp văn học của Nam Cao gắn liền với cuộc đấu tranh bản thân trung thực, dũng cảm trong suốt cuộc đời cầm bút của nhà văn.
Cuộc đời lao động nghệ thuật vì lý tưởng nhân đạo, lý tưởng cách mạng và sự hy sinh anh dũng của Nam Cao mãi mãi là tấm gương cao đẹp của một nhà văn – chiến sĩ. Trong cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn suy nghĩ về “sống và viết”. Ban đầu, ông chịu ảnh hưởng sâu của phong trào lãng mạn đương thời, đã sáng tác những bài thơ, chuyện tình lâm li dễ dãi. Nhưng ông đã dần dần nhận ra rằng thứ văn chương đó rất xa lạ đối với đời sống lầm than của đông đảo quần chúng nghèo khổ xung quanh. Và ông đã đoạn tuyệt với nó để tìm đến con đường nghệ thuật hiện thực “vị nhân sinh”. Trong truyện ngắn “Trăng sáng” (1943), được coi là một tuyên ngôn nghệ thuật đanh thép, cảm động, ông viết: “Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”. Theo Nam Cao, người cầm bút không được “trốn tránh” sự thực, mà hãy “cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời…”
Lên án văn chương thoát ly, Nam Cao không tán thành loại sáng tác “chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội”. Trong truyện ngắn “Đời thừa” (1943), Nam Cao cho rằng một tác phẩm “thật giá trị” thì phải có nội dung nhân đạo sâu sắc: “Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn”. Đồng thời, nhà văn đòi hỏi cao sự tìm tòi sáng tạo trong nghề văn và lương tâm người cầm bút. Ông viết: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có” (Đời thừa). Ông coi sự cẩu thả trong nghề văn chẳng những là “bất lương” mà còn là “đê tiện”. Sau cách mạng, Nam Cao say mê, tận tụy trong mọi công tác phục vụ kháng chiến được giao, không nề hà lớn nhỏ, với ý nghĩa dứt khoát: lợi ích cách mạng, lợi ích dân tộc là trên hết.
Nam Cao có sáng tác đăng báo từ 1936, nhưng sự nghiệp văn học của ông chỉ thật sự bắt đầu từ truyện ngắn “Chí Phèo” (1941), sáng tác của Nam Cao trước cách mạng tập trung vào hai đề tài chính: cuộc sống người trí thức tiểu tư sản nghèo và cuộc sống người nông dân ở quê hương. Ở đề tài người trí thức tiểu tư sản, đáng chú ý là các truyện ngắn: Những truyện không muốn viết, Trăng sáng, Mua nhà, Truyện tình, Quên điều độ, Cười, Nước mắt, Đời thừa… và tiểu thuyết Sống mòn (1944). Trong những sáng tác này, Nam Cao đã miêu tả hết sức chân thực tình cảnh nghèo khổ, dở sống dở chết của những người nghèo, những “giáo khổ trường tư”, nhà văn nghèo, viên chức nhỏ… Nhà văn đặc biệt đi sâu vào những bi kịch tâm hồn của họ, qua đó, đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, vượt khỏi phạm vi của đề tài. Đó là tấn bi kịch dai dẳng, thầm lặng mà đau đớn của người trí thức có ý thức sâu sắc về giá trị sự sống và nhân phẩm, có hoài bão lớn về một sự nghiệp tinh thần, nhưng lại bị gánh nặng về cơm áo và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho “chết mòn”, phải sống cuộc “đời thừa”. Những tác phẩm đó đã phê phán sâu sắc xã hội phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con người, đồng thời, đã thể hiện sự tự đấu tranh bên trong của người trí thức tiểu tư sản trung thực cố vươn tới một cuộc sống đẹp đẽ, thực sự có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống con người.
Nam Cao để lại chừng hai chục truyện ngắn viết về cuộc sống tăm tối thê thảm của người nông dân đương thời. Những truyện đáng chú ý là: Chí Phèo, Trẻ con không được ăn thịt chó, Mua danh, Tu cách mõ, Điếu văn, Một bữa no, Lão Hạc, Một đám cưới, Lang Rận, Dì Hảo, Nửa đêm… Ở đề tài này, Nam Cao thường quan tâm tới những hạng cố cùng, những số phận hẩm hiu, bị ức hiếp nhiều nhất. Họ càng hiền lành, nhịn nhục thì càng bị chà đạp phũ phàng. Ông đặc biệt đi sâu vào những trường hợp con người bị lăng nhục một cách độc ác, bất công, mà xét đến cùng, chẳng qua chỉ vì họ nghèo đói, khốn khổ. Tuy giọng văn lắm khi lạnh lùng, nhưng kỳ thực, Nam Cao đã dứt khoát bênh vực quyền sống và nhân phẩm những con người bất hạnh, bị xã hội đẩy vào tình cảnh nhục nhã đó (Chí Phèo, Một bữa no, Tư cách mõ, Lang Rận). Viết về những người nông dân bị lưu manh hóa, nhà văn đã kết án sâu sắc cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thế xác và linh hồn người nông dân lao’ động, đồng thời, ông vẫn phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện, đẹp đẽ của họ, ngay trong khi họ bị vùi dập tới mất cả hình người, tính người. Nhà văn đã đặt ra vấn đề phải xác định “đôi mắt” đúng đắn để nhìn nhận về quần chúng. Ông luôn ý thức “cố mà tìm hiểu” cái “bản tính tốt” của người nông dân nghèo thường bị “che lấp”, vùi dập. Trong nhiều tác phẩm, Nam Cao không những đã vạch ra nỗi khổ cùng cực của người nông dân mà còn thể hiện cảm động bản chất đẹp đẽ, cao quý trong tâm hồn của họ (Lão Hạc, Một đám cưới, Dì Hảo…).
Có thể nói, dù viết về người trí thức nghèo hay về người nông dân cùng khổ, diều làm cho Nam Cao day dứt tới đau đớn là tình trạng con người bị xói mòn về nhân phẩm, thậm chí bị hủy diệt cả nhân tính, trong cái xã hội phi nhân đạo đương thời.
Cũng như các nhà văn tiểu tư sản khác chưa nắm được chân lý cách mạng, Nam Cao không thấy được khả năng đổi đời của những người khốn cùng và triển vọng của xã hội. Song trong truyện ngắn “Điếu văn” (1944), ông đã viết những dòng dự báo sôi nổi: “Sự đời không thể cứ mù mịt mãi thế này đâu. Tương lai phải sáng sủa hơn. Một rạng đông đã báo rồi!”. Đó là lời chào đón thắm thiết tia sáng rạng đông đang báo hiệu ở chân trời lúc bấy giờ. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Nam Cao lao mình vào mọi công tác cách mạng và kháng chiến. Truyện ngắn Đôi mắt (1948) là một thành công xuất sắc của văn nghệ kháng chiến khi đó. Nhìn vào hình ảnh một trí thức cũ đi tản cư theo kháng chiến nhưng giữ nguyên lối sống trưởng giả, nhởn nhơ và “đôi mắt” khinh thường đối với quần chúng – hình ảnh thật lạc lõng giữa cuộc sống kháng chiến lành mạnh sôi nổi lúc bấy giờ. Người trí thức đi theo cách mạng càng thêm dứt khoát từ bỏ con người cũ, lôi sông cũ và quyết tâm “cách mạng hóa tư tưởng, quần chúng hóa sinh hoạt”, trở thành những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa. “Nhật kí ở rừng” (1948) viết trong thời kỳ nhà văn công tác ở vùng sâu Bắc Cạn và tập kí sự “Chuyện biên giới” (1950) viết khi ông đi chiến dịch Cao – Lạng đều là những sáng tác giá trị của nền văn xuôi mới còn non trẻ khi đó. Nhà văn hy sinh giữa lúc tư tưởng và tài năng đang độ phát triển nhất trong thời đại mới, đầy hứa hẹn.
Ngòi bút Nam Cao vừa tỉnh táo, sắc lạnh, vừa nặng trĩu suy nghĩ và đằm thắm yêu thương. Văn Nam Cao vừa hết sức chân thực – ông coi sự thực là trên hết, không gì ngăn được nhà văn đến với sự thực – vừa thấm đượm ý vị triết lý trữ tình. Ông có sở trường diễn tả, phân tích tâm lý con người. Ngôn ngữ trong văn đầy sống động, uyển chuyển, tinh tế, rất gần với lời ăn tiếng nói quần chúng.
Với một tài năng lớn, giàu sức sáng tạo, Nam Cao đã góp phần quan trọng vào việc cách tân nền văn xuôi Việt Nam theo hướng hiện đại hóa.
Nam Cao ( 1917 – 1951) là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Tên khai sinh của nhà văn là Trần Hữu Tri, sinh ra trong một gia đình nông dân. Quê ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, phủ Lý Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân), tỉnh Hà Nam. Sau khi học hết bậc Thành trung, Nam Cao vàng Sài Gòn kiếm sống và bắt đầu sáng tác. Sau hơn ba năm đau ốm, ông phải trở về quê. Sau đó, ông dạy học cho một trường tư thục ở ngoại ô Hà Nội. Nhưng cuộc đời của một ông giáo trường tư cũng không được yên ổn: Nhật kéo vào Đông Dương, trường học phải đóng cửa, ông sống chật vật, vất vả bằng nghề viết văn và làm gia sư.Đầu năm 1943, Nam Cao tham gia nhóm Văn hóa cứu quốc ở Hà Nội, nhưng bị địch khủng bố gắt gao, ông phải lánh về quê, tham gia cuộc Tổng khởi nghĩa (8 – 1945) ở Lý Nhân. Năm 1946, ông có mặt trong đoàn quân Nam tiến với tư cách là một phóng viên. Năm 1947, ông lên Việt Bắc làm công tác báo chí, tuyên truyền phục vụ kháng chiến. Tháng 11 năm 1951, trên đường vào công tác ở vùng địch hậu Liên khu III, ông bị giặc phục kích và sát hại.
Con người Nam Cao nhìn bề ngoài có vẻ lạnh lùng, vụng về, ít nói, nhưng đời sống nội tâm lại rất phong phú. Ông là người có tấm lòng đôn hậu, chan chứa yêu thương, gắn bó sâu nặng giàu ân tình với quê hương, những người nghèo khổ bị áp bức, khinh miệt trong xã hội cũ. Nam Cao quan niệm rằng không có tình yêu thương đồng loại thì không đáng gọi là con người (Đời thừa).
Trong suốt cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn suy nghĩ về vấn đề “sống và viết”, rất có ý thức về quan điểm nghệ thuật của mình. Khi mới cầm bút, Nam Cao còn chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn đương thời. Nhưng ông dần nhận ra thứ văn chương đó rất xa lạ với đời sống lầm than của nhân dân lao động, ông quyết định đoạn tuyệt với nó để tìm đến con đường nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa. Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao được thể hiện ngay trong các tác phẩm của ông. Với Nam Cao, “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì đó lớn lao, mạnh mẽ, đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn” (Đời thừa, 1943). Ông cũng luôn đòi hỏi rất cao sự tìm tòi sáng tạo trong nghề viết văn: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những gì chưa có” (Đời thừa, 1943). Sau Cách mạng, ông vẫn tích cực tham gia vào cuộc kháng chiến, sẵn sàng hy sinh thứ nghệ thuật cao siêu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ông quan niệm rằng: “Sống đã rồi hãy viết”, “góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này chính là để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn” (Nhật kí ở rừng, 1948).
Advertisement
Các sáng tác của nhà văn Nam Cao xoay quanh hai mảng đề tài chính. Đó là người nông dân nghèo đói bị vùi dập với các tác phẩm nổi tiếng như Lão Hạc, Chí Phèo, Dì Hảo, Một bữa no, Một đám cưới, Trẻ con không được ăn thịt chó, Mua danh… Và người trí thức nghèo, sống mòn mỏi bế tắc trong xã hội xưa cũ: Đời thừa, Giăng sáng, Những truyện không muốn viết, Mua nhà, Quên điều độ, Cười… Dù viết về người nông dân hay người trí thức, các sáng tác của Nam Cao vẫn chứa đựng một nội dung triết học sâu sắc. Ông luôn trăn trở về vấn đề nhân phẩm, thái độ trọng khinh đối với con người. Thậm chí ông luôn day dứt tới mức đau đớn trước tình trạng xã hội vô nhân đạo đã đày đọa con người trong sự nghèo đói, vùi dập ước mơ, lẽ sống cao đẹp của họ. Các sáng tác sau cách mạng của Nam Cao chủ yếu phục vị cuộc kháng chiến với các tác phẩm như: Nhật ký ở rừng (1948), truyện ngắn Đôi mắt (1948), tập kí sự Chuyện biên giới (1950)…
Mỗi nhà văn đều có phong cách sáng tác riêng. Đó là thứ “vân tay” để phân biệt dấu ấn của các tác giả. Nam Cao cũng vậy. Ông là nhà văn có biệt tài diễn tả, phân tích tâm lí nhân vật. Nam Cao tỏ ra sắc sảo trong việc phân tích, diễn tả những trạng thái, quá trình tâm lý phức tạp, hiện tượng lưỡng tính dở say dở tỉnh, dở khóc dở cười… Ngoài ra, ông còn tạo được những đoạn đối thoại, độc thoại nội tâm rất chân thật, sinh động.
Như vậy, Nam Cao quả là một nhà văn xuất sắc của nền văn học hiện thực Việt Nam. Bạn đọc yêu văn Nam Cao sẽ còn mãi nhớ đến những giá trị sâu sắc trong các sáng tác của ông.
Nam Cao (1917 – 1951) là một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với hoàn thiện truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam hiện trên quá trình hiện đại hóa ở nửa đầu thế kỉ XX.
Nam Cao tên khai sinh là Trần Hữu Tri. Quê làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân (nay là xã Hoà Hậu, huyện Lý Nhân), tỉnh Hà Nam. Ông được coi là một nhà văn hiện thực xuất sắc trước Cách mạng tháng 8, với những truyện ngắn, truyện dài chân thực viết về người nông dân nghèo đói bị vùi dập và người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ. Sau Cách mạng, Nam Cao sáng tác tận tụy sáng tác phục vụ kháng chiến. Ông đã hy sinh trên đường vào công tác vùng sau lưng địch tháng 11 năm 1951.
Nam Cao luôn quan niệm rằng: “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì đó lớn lao, mạnh mẽ, đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn” (Đời thừa, 1943). Đối với nghề viết văn, Nam Cao cho rằng: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những gì chưa có” (Đời thừa, 1943). Ông còn cho rằng: “Nghệ thuật vị nhân sinh” – văn chương phải hướng đến cuộc sống của con người.
Nam Cao là nhà văn có biệt tài diễn tả, phân tích tâm lí nhân vật. Nam Cao tỏ ra sắc sảo trong việc phân tích, diễn tả những trạng thái, quá trình tâm lý phức tạp, hiện tượng lưỡng tính dở say dở tỉnh, dở khóc dở cười… Ngoài ra, ông còn tạo được những đoạn đối thoại, độc thoại nội tâm rất chân thật, sinh động.
Các sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng xoay quanh hai mảng đề tài chính: người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Về mảng đề tài người trí thức nghèo, Nam Cao miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người trí thức nghèo trong xã hội đương thời trước 1945, đó là những “giáo khổ trường tư” – những nhà văn nghèo, những viên chức nhỏ. Họ là những trí thức có hoài bão, tâm huyết và tài năng; nhưng lại bị gánh nặng áo cơm và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho “chết mòn” và phải sống như “một kẻ vô ích, một người thừa”. Qua đó nhà văn muốn phê phán sâu sắc xã hội ngột ngạt, phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con người, đồng thời nói lên khao khát một lẽ sống lớn, có ích, có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống con người. Về mảng đề tài người nông dân nghèo, Nam Cao đã vẽ lên một bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với cảnh nghèo đói, xơ xác và thậm chí bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nam Cao không hề bôi nhọ người nông dân, trái lại, đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để khẳng định nhân phẩm và bản chất lương thiện ngay cả khi bị vùi dập, cướp mất cà nhân hình, nhân tính của người nông dân. Đồng thời, ông cũng kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đó trước 1945. Sau Cách mạng, Nam Cao là cây bút tiêu biểu của văn học giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) với những tác phẩm phục vụ cuộc kháng chiến.
Các tác phẩm của Nam Cao thuộc nhiều thể loại khác nhau. Về truyện ngắn có Chí Phèo (1941), Giăng sáng (1942), Đời thừa (1943), Một đám cưới (1944), Đôi mắt (1948)…; tiểu thuyết: Sống mòn (1944)…; thể loại khác: Nhật kí ở rừng (1948), kí sự Chuyện biên giới (1951)…
Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nam Cao có thể kể đến truyện ngắn Chí Phèo. “Chí Phèo” là một trong những truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Nam Cao. Truyện ban đầu có tên là Cái lò gạch cũ. Nhưng khi in thành sách lần đầu, nhà xuất bản đã tự đổi tên là Đôi lứa xứng đôi (NXB Đời mới, Hà Nội, 1941). Năm 1946, khi in lại trong tập Luống cày, Nam Cao đã đổi tên thành Chí Phèo. Chí Phèo là một trong những kiệt tác văn xuôi Việt Nam hiện đại với giá trị hiện thực và nhân văn sâu sắc. Truyện kể về cuộc đời của Chí Phèo – một đứa trẻ mồ côi bị bỏ lại trong một cái lò gạch bỏ không. Sau này, Chí được dân làng truyền tay nhau nuôi lớn. Đến năm hai mươi tuổi, Chí đến làm canh điền cho nhà Bá Kiến. Chỉ vì một chuyện ghen tuông không đâu, bá Kiến đã đẩy Chí đi ở tù. Khi từ tù ra, Chí Phèo đã hoàn toàn thay đổi cả về nhân hình lẫn nhân tính. Hắn trở thành tay sai đi đòi nợ thuê cho Bá Kiến, chuyên đi uống rượu và vạch mặt ăn vạ. Cả làng Vũ Đại đều sợ Chí. Tình cờ, một lần Chí Phèo đã gặp Thị Nở – người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn. Hắn ôm chầm lấy Thị Nở và ăn nằm với Thị. Sáng hôm sau, Chí Phèo bị cảm, Thị Nở nấu cho Chí bát cháo hành để giải rượu. Chính bát cháo đã làm Chí Phèo thức tỉnh, khao khát trở về làm người lương thiện. Nhưng lời nói của bà cô do thị Nở nhắc lại khiến Chí đau đớn và tuyệt vọng. Hắn uống rượu và xác dao định đến nhà đâm chết thị và bà cô. Nhưng Chí lại đến nhà đâm chết Bá Kiến rồi tự sát. Chí Phèo là nhân vật điển hình, có tính khái quát cho một bộ phận nhân dân lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh, tha hóa. Với nhân vật này, nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đã tàn phá cả thế xác lẫn tâm hồn của người nông dân lao động. Đồng thời, qua đó Nam Cao cũng khẳng định bản chất lương thiện của họ ngay cả khi bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính. “Chí Phèo” đã trở thành một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao.
Có thể thấy, Nam Cao là một nhà văn đã có những đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Các tác phẩm của ông đã để lại nhiều bài học giá trị sâu sắc cho người đọc.
Nam Cao (1915 – 1951) là nhà văn Việt Nam, người đại diện tiêu biểu của trào lưu văn học hiện thực phê phán trong thời kì phát triển cuối cùng (1940 – 1945), là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.
Tên khai sinh của ông là Trần Hữu Tri, quê làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân (nay là xã Hoà Hậu, huyện Lý Nhân), tỉnh Hà Nam. Ông được coi là một nhà văn hiện thực xuất sắc trước Cách mạng tháng 8, với những truyện ngắn, truyện dài chân thực viết về người nông dân nghèo đói bị vùi dập và người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ. Sau Cách mạng, Nam Cao chân thành, tận tụy sáng tác phục vụ kháng chiến. Ông đã hy sinh trên đường vào công tác vùng sau lưng địch, để lại một tấm gương cao đẹp của một nhà văn – chiến sĩ.
Quan niệm nghệ thuật của Nam Cao là: “Nghệ thuật vị nhân sinh” (tức là nghệ thuật phải viết về con người và hướng đến những điều tốt đẹp của con người); ông phê phán quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Nhà văn đã có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam trên quá trình hiện đại hóa ở nửa đầu thế kỉ XX. Ông luôn suy nghĩ về vấn đề và rất có ý thức về quan điểm nghệ thuật của mình.
Về phong cách nghệ thuật, Nam Cao đề cao con người tư tưởng, đặc biệt chú ý tới hoạt động bên trong của con người, coi đó là nguyên nhân của những hoạt động bên ngoài – đây là phong cách rất độc đáo của Nam Cao. Ông quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn hứng thú khám phá “con người trong con người”. Tâm lí nhân vật trở thành trung tâm của sự chú ý, là đối tượng trực tiếp của ngòi bút Nam Cao. Ông thường viết về những cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh. Từ cái sự tầm thường quen thuộc trong đời sống hàng ngày của “Những truyện không muốn viết”, tác phẩm của Nam Cao làm nổi bật vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn triết lý sâu sắc về con người, cuộc sống và nghệ thuật. Giọng điệu riêng, thường có sắc thái buồn thương, chua chát. Ông có phong cách nghệ thuật triết lý trữ tình sắc lạnh.
Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao được chia làm hai giai đoạn: trước Cách mạng và sau Cách mạng. Một số tác phẩm trước cách mạng như Chí Phèo, Trăng sáng, Đời thừa, Sống mòn. Một số tác phẩm sau Cách mạng như truyện ngắn Đôi mắt , tập nhật kí Ở rừng…
Trong số đó nổi bật là truyện ngắn Lão Hạc. Đây là một trong những truyện ngắn viết về người nông dân của Nam Cao, đăng báo lần đầu năm 1943. Tác phẩm được đánh giá là một trong những truyện ngắn khá tiêu biểu của dòng văn học hiện thực, nội dung truyện đã phần nào phản ánh được hiện trạng xã hội Việt Nam trong giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám. Câu chuyện kể về lão Hạc có một người con trai, một mảnh vườn và một con chó vàng. Con trai lão Hạc đi phu đồn điền cao su, lão chỉ còn lại “cậu Vàng”. Vì muốn để lại mảnh vườn cho con, lão phải bán con chó mặc dù hết sức buồn bã và đau xót. Lão mang tiền dành dụm được gửi ông giáo và nhờ trông coi mảnh vườn. Cuộc sống mỗi ngày một khó khăn, lão kiếm được gì ăn nấy và bị cảm một trận khủng khiếp. Lão từ chối tất cả những gì ông giáo giúp. Một hôm lão xin Binh Tư ít bả chó nói là để giết con chó hay đến vườn, làm thịt và rủ Binh Tư cùng uống rượu. Ông giáo rất buồn cho lão khi nghe tin Binh Tư kể chuyện ấy. Lão bỗng nhiên chết – cái chết thật dữ dội. Cả làng không hiểu vì sao lão chết, trừ Binh Tư và ông giáo. Cái chết của lão đau đớn và dữ dội, gây cho người đọc nhiều sự xúc động, xót xa. Truyện được thể hiện qua lời kể của nhân vật tôi – ông giáo, và dường như đâu đó trong nhân vật này ta thấy hiện lên giọng kể của tác giả.Nghệ thuật viết truyện của Nam Cao có những đặc sắc, độc đáo mà đa dạng.
Tác phẩm của Nam Cao vừa rất mực chân thật vừa có một ý vị triết lý, một ý nghĩa khái quát sâu xa. Ngòi bút hiện thực tỉnh táo nghiêm ngặt vừa sắc lạnh, gân guốc lại vừa thắm thiết trữ tình. Nhà văn tỏ ra có sở trường miêu tả tâm lí con người, nhất là khi đi vào những diễn biến tâm lý tinh tế, phức tạp. Có thể nói, về nhiều mặt, tác phẩm Nam Cao đánh dấu một bước phát triển mới của văn xuôi quốc ngữ Việt Nam, mới hình thành hơn nửa thế kỉ nhưng đang hiện đại hoá với một tốc độ thật nhanh chóng.
Có thể khẳng định được rằng, nhà văn Nam Cao đã để lại trong lòng độc giả yêu văn học hiện thực những ấn tượng vô cùng sâu sắc. Các tác phẩm của ông vẫn sẽ còn sống mãi với thời gian.
75 Bài Văn Mẫu Lớp 6 Hay Nhất Những Bài Văn Hay Lớp 6
Những bài văn mẫu lớp 6
Tôi có rất nhiều kỉ niệm đẹp về những người thân trong gia đình. Những kỉ niệm đó đã đem lại cho tôi rất nhiều bài học quý giá về cuộc sống.
Người tôi gắn bó nhất trong gia đình là anh trai của tôi. Hiện tại, anh trai tôi đang là một sinh viên đại học. Anh tên là Tùng. Anh không chỉ đẹp trai mà còn học rất giỏi. Nếu nói đến học lực thì anh là một tấm gương điểm sáng để cho lũ trẻ em hàng xóm noi theo. Nhưng nhắc đến anh trai, tôi sẽ nghĩ về những trải nghiệm cùng anh thực hiện khi còn nhỏ.
Nhớ nhất là khi tôi lên năm tuổi, anh trai đã đưa tôi đi câu cá ở con sông gần làng. Đây là lần đầu tiên tôi được đi câu cá. Chính vì vậy, tôi cảm thấy rất háo hức. Đầu tiên, hai anh em đã đi ra vườn để đào giun đất làm mồi câu. Sau đó, cả hai cùng nhau ra sông câu cá. Anh Tùng đã dạy tôi cách gắn mồi câu, cách câu cá. Khi nhìn anh làm, tôi cảm thấy vô cùng khâm phục. Anh trai của tôi thật giỏi. Chúng tôi đã ngồi câu rất lâu. Vì là lần đầu tiên, nên tôi còn gặp phải nhiều khó khăn. Từ việc gắn lưỡi câu, mồi câu… Nhưng nhờ có anh Tùng kiên nhẫn dạy mà lần đầu tiên tôi đã câu được một con cá. Đó là một trải nghiệm thật tuyệt với tôi.
Bố mẹ bận rộn công việc, anh trai là người luôn dạy cho tôi nhiều điều bổ ích. Không chỉ giảng bài cho tôi, anh còn dạy tôi học võ nữa. Anh bảo con gái phải biết tự bảo vệ bản thân mình. Biết bao nhiêu là kỉ niệm đẹp đẽ như vừa mới xảy ra thôi. Những năm anh học đại học, phải xa nhà thường xuyên, tôi thấy nhớ anh. Nhớ những lúc anh nấu cơm dỗ tôi ăn khi tôi bị ốm còn bố mẹ bận công chuyện, những lần anh dạy tôi học bài… Nhờ có anh mà tuổi thơ của tôi luôn cảm thấy hạnh phúc.
Đối với tôi, anh trai là một người vô cùng quan trọng. Tôi luôn dành cho anh sự yêu mến, tự hào. Và tôi mong rằng chúng tôi sẽ có thêm nhiều kỉ niệm hạnh phúc hơn nữa.
Tết đến, xuân về – đây là thời điểm mà mọi người háo hức bắt đầu chuẩn bị đi mua sắm Tết. Những khu chợ trở nên đông vui nhộn nhịp hơn bao giờ hết. Đặc biệt nhất là khu chợ hoa Tết thu hút nhiều người đến mua. Năm nay, em đã có một trải nghiệm thú vị, đó là đi chợ hoa Tết cùng bố.
Từ hai lăm đến ba mươi Tết, khi ra đường là đã thấy các cửa hàng bán hoa. Những người người đến xem đông như trẩy hội. Nào là hoa cúc, hoa mai, đào, cẩm chướng, lay ơn, thược dược… Muôn loài hoa đang khoe sắc để chào đón một năm mới sang. Khoảng chín giờ sáng hai mươi sáu Tết, bố nói với mẹ sẽ ra chợ để sắm hoa Tết. Em thuyết phục bố cho đi cùng. Sau mười lăm phút đưa ra đủ lý do, bố cũng đồng ý. Hai bố con đi khoảng mười lăm phút là tới nơi. Chợ hoa ngày cuối năm nhộn nhịp và náo nhiệt không kém chợ tết là mấy. Chợ hoa Tết cũng đông vui không kém những khu chợ khác. Người mua, kẻ bán cười nói rôm rả, xôn xao khắp cả chợ.
Những chiếc xe chở phía sau những chậu quất, cành đào ra vào tấp nập. Gương mặt của mọi người đều tươi rói, hớn hở vì một mùa xuân mới lại sắp về. Bên cạnh những gian hàng bán đào và quất là các gian bán hoa tươi. Các loại hoa được bày bán rất đa dạng. Hoa hồng, hoa cúc, hoa vi-ô-let, hoa lan, hoa dơn, hoa thược dược… Tất cả tạo nên một bức tranh nhiều màu sắc cho chợ hoa. Đắt Những quầy bán hoa thu hút rất đông người mua. Bởi có lẽ mọi người đều muốn chọn cho mình những bông hoa tươi nhất, đẹp nhất để về đặt lên bàn thờ tổ tiên trong ngày tết.
Người bán hồ hởi mời chào khách mua hoa, người mua vừa chiêm ngưỡng những đóa hoa đẹp nhất vừa đắn đo lựa chọn những bó hoa đủ mọi sắc màu. Người ta đi chợ hoa như đi trẩy hội để dành cho mình những sắc hương đẹp nhất mang về trang hoàng và mang không khí tết về với gia đình. Đông đúc nhất phải là những khu bán đào, mai và quất. Bởi đây là những loại cây đặc trưng của ngày tết, nên mọi người đều muốn mua một chậu đào, mai hoặc quất về chơi Tết. Những chậu cây được tạo với nhiều hình dáng độc đáo. Những nụ hoa đào, hoa mai đã bắt đầu bung nở trong những cơn mưa xuân.
Hai bố con đi dạo một vòng quanh khu chợ. Thỉnh thoảng, bố dừng lại trước một khu bán đào hay bán quất để ngắm. Cuối cùng, bố em cũng chọn được một chậu đào rất đẹp. Khi bố mang chậu hoa về, em cảm thấy rất thích nó. Chợ hoa Tết chính là một nét đẹp của dịp Tết cổ truyền dân tộc. Trải nghiệm được đi chợ hoa vào những ngày giáp Tết khiến em không chỉ cảm nhận được không khí Tết đang về. Mà còn cảm thấy tự hào hơn về một nét đẹp cần giữ gìn của dân tộc.
Đã bao đời nay, Tết trở thành một lễ hội nằm trong niềm mong đợi và không thể thiếu của con người Việt Nam. Và những khu chợ hoa cũng đã trở thành một nét đặc trưng không thể thiếu của những ngày tết.
Mùa hè không chỉ có ánh nắng chói chang nhuộm vàng khắp các con đường. Mà mùa hè còn có những cơn mưa rào, chợt đến chợt đi.
Những cơn mưa mùa hè thường đến vào buổi chiều, sau một ngày nắng nóng và oi ả. Bỗng nhiên, từ đâu, từng đám mây đen kéo đến khiến bầu trời đen lại. Mọi vật dường như tối sầm lại. Những đám mây đen giống như một bàn tay khổng lồ đang ôm trọn cả bầu trời, nhìn mà đáng sợ. Chẳng bao lâu sau, cơn gió nổi lên cuốn theo những đám lá khô trên đường bay khắp nơi. Cây cố thì nghiêng ngả theo cơn gió như sắp đổ vậy. Mọi người trên đường, ai cũng đang hối hả hòa theo dòng người để trở về nhà để cho kịp tránh khỏi cơn mưa sắp đến.
Trời nổi cơn giông đã xua đi cái không khí oi ả ban sáng. Một lúc sau, mưa kéo đến. Những hạt mưa rơi xuống khắp các mái nhà, vườn cây, con đường… Tiếng mưa rơi kêu rào rào nghe thật vui tai. Mưa càng lúc càng nặng hạt, những hạt nước mưa trong veo rơi xuống như trút nước. Những hạt mưa khiến không gian trở nên trắng xóa. Những hạt nước ấy đang đem nguồn sống tươi mát cho vạn vật. Mưa mùa hạ đến rất nhanh, nhưng đi cũng rất nhanh. Chẳng bao lâu sau, cơn mưa đã ngớt dần rồi tạnh hẳn.
Sau cơn mưa, bầu trời cao và trong xanh hơn. Cây cối cũng trở nên tươi tắn hơn. Và con người cảm thấy dễ chịu hơn. Đường phố cũng sạch sẽ hơn. Không khí trong lành hơn. Còn em, khi trở về nhà cũng cảm thấy khung cảnh làng quê mình thật tuyệt vời. Cánh đồng làng quê em dường như khoác lên mình một bộ áo mới. Mưa đến đem theo làn nước mát tưới tắm cho cánh đồng sau những ngày hè nắng oi ả. Những chú cò trắng nghiêng cánh bay lên đậu xuống. Chim sơn ca véo von ca hát để chào ngày mới. Đồng làng xanh thắm bao la. Lúa phơi phới dâng lên. Ngọn lúa uốn cong như xòe bàn tay lên mừng vui reo hát.
Những cơn mưa rào dường như đã trở thành biểu tượng của mùa hạ. Mà sau những ngày hè nóng bức, ai cũng đợi chờ.
Năm tháng cứ thế trôi đi, chỉ có thời gian là thước đo tốt nhất cho tình cảm bạn bè. Trong suốt những năm tháng học trò, có lẽ Ngọc Lan chính là người bạn tốt nhất của em.
Ngọc Lan có dáng người dong dỏng cao. Khuôn mặt bầu bĩnh, đầy đặn khiến ai nhìn cũng cảm thấy đáng yêu. Nước da ngăm ngăm đen. Mái tóc dài óng ả. Cặp mắt đen láy lúc nào cũng mở to, tròn xoe trông rất đáng yêu. Chiếc mũi hếch và cái miệng rộng luôn tươi cười để lộ hai hàm răng trắng bóng. Ở Ngọc Lan khi nào cũng toát lên vẻ năng động, tự tin, hóm hỉnh và hài hước nên rất dễ mến.
Ngọc Lan là một cô bạn rất hiếu động, không lúc nào yên nghỉ chân tay. Trong giờ ra chơi, chỗ nào sôi động nhất là ở đó có Ngọc Lan. Chúng em thường tụ tập nhóm ba, nhóm bảy ngồi xung quanh bạn Ngọc Lan để nghe bạn kể chuyện. Mở đầu câu chuyện, Ngọc Lan vẫn thường hay kể: “Cái hồi xưa ấy, đấy, cái hồi ấy, cái hồi mà bà tớ chưa sinh ra mẹ tớ ấy …”. Chỉ nghe có đến thế thôi là chúng em đã đều đã bật cười.
Đặc biệt, Ngọc Lan có một trí nhớ rất tốt. Những truyện đã đọc hay đã nghe, Ngọc Lan đều nhớ như in và kể lại bằng đúng giọng nhân vật nên rất cuốn hút và sinh động. Một mình Ngọc Lan đóng đủ các vai, kết hợp với điệu bộ khôi hài khiến bọn em lăn lóc cười đến vỡ bụng.
Ngọc Lan luôn luôn làm ra những trò chơi thú vị. Bạn thường hay chơi cùng với chúng em trò bịt mắt bắt dê hay bó khăn, vừa chạy lại vừa kêu tiếng dê be be nghe rất ngộ nghĩnh. Ngọc Lan thường biểu diễn tiếng hát, tiếng ngựa hí và con sóc nâu hay leo trèo. Mỗi tiết mục, Ngọc Lan đều được hoan nghênh nhiệt liệt và gây ra những trận cười nứt nẻ.
Không chỉ là các bạn gái mà cả các bạn trai ngoài và trong lớp đều yêu mến bạn Ngọc Lan. Cho dù mai này, khi rời xa mái trường thân yêu, chúng em vẫn sẽ cố gắng giữ gìn liên lạc để tình bạn này mãi tồn tại.
Mặt trời tiết cuối đông nhọc nhằn chọc thủng màn sương sớm, từ từ nhô lên khỏi rặng tre của làng xa. Bầu trời dần tươi sáng, cảnh vật như bừng tỉnh để đón chào ngày mới, đón chào một mùa xuân mới đang sắp sửa tới gần.
Từ các xóm làng, từ các mái nhà còn sương lam ôm ấp, mọi người đổ ra đường, người gồng gánh, kẻ bưng thúng, xách giỏ, có người đẩy xe chở hàng. Họ lần lược dồn lên con đường lớn. Vai kĩu kịt, tay vung vẫy, chân đi thoăn thoắt…Tất cả đều tiến về chợ huyện. Phiên chợ Tết thật đông. Tiếng lợn con en éc, tiếng gà gáy oát…oát, tiếng vịt cạc…cạc, tiếng người nói bô bô trong chợ. Các gian hàng nhanh chóng được bày diện. Nào áo, quần, giày dép nhiều loại, bánh mứt đủ màu, rau quả tươi roi rói, kẻ buôn người bán lon xon, chật ních. Trước cổng chợ, những bức tranh lợn, gà heo, chuột ếch,… được giải treo tiếp nối nhau trông thật đẹp mắt. Rồi bức tranh của làng quê cũng hiện lên từ xa: Biển lúa vàng óng ả, chú bé ngồi ngất nghểu trên lưng trâu ung dung thổi sáo, đàn cò trắng nhởn nhơ trên bầu trời xanh thẳm, chim én lượn vòng trên xóm chợ… Một bức tranh đầy quyến rũ, ấm áp lạ thường.
Sương tan, nắng ấm rải nhẹ trên hoa lá, chợ đông nghẹt, đủ thứ màu sắc trà trộn, đủ thứ âm thanh chen lẫn. Không ai nói to cũng không ai nói nhiều. Nhưng lường phát âm của vô số người đã làm phiên chợ âm ầm giữa miền quê yên tĩnh và vô cùng vui tươi, trù phú. Sắc xuân rón rén đến gần, xuân phảng phất trong từng nụ hoa đang chúm chím. Mặt trời đã ngả về phía tây, chợ vẫn tưng bừng hàng hóa vẫn tấp nập các quầy. Từ các nơi, các loài hoa nườm nượp đưa về. Nào là hoa mai, hoa đào, hoa cẩm chướng, hồng nhung… Chúng rạng rỡ như cô thiếu nữ, chúng lay động dưới ánh xuân như tuổi đôi mươi. Đây đó, một vài cụ đồ nho hí hoáy viết thơ xuân, viết những câu đối đỏ trên bức sáo, mọi người chen nhau đọc. Có người mãi ngắm tranh, ngắm hoa, đọc thơ mà quên cả thời gian vận hành, buổi chiều hửng ấm đã nhạt nhòa ngã xuống.
Cho tới lúc trời tối, chuông chùa văng vẳng ngân vang, mọi người tạm ngừng phiên chợ. Họ lũ lượt trở ra về. Khung cảnh tưng bừng nơi chợ Tết bắt đầu mờ dần rồi mất hẳn, không còn trông thấy một cái gì nữa bởi sương đêm. Phảng phất trong không khí có mùi hương quen thuộc, mùi lúa mới, mùi trái ngọt, hoa thơm… Tất cả đều đặc biệt, đáng yêu, đáng quý bởi nó là mùi vị của một làng quê Việt Nam trù phú, thấm đượm nghĩa tình, ấm nồng hương đồng cỏ nội.
Phiên chợ Tết đã đem đến cho con người bao điều thú vị. Ai cũng hối hả, khẩn trương với công việc của mình. Họ rạo rực đón xuân trong niềm vui lao động. Tôi cũng hồi hộp đón xuân và lo nghĩ đến nhiệm vụ của chính mình.
Nghỉ hè, em cùng bố mẹ về quê thăm ông bà nội. Ngồi trong xe ô tô, mở cửa số ra đón cơn gió thoảng qua làm em khoan khoái cả người. Khi gần về đến quê thì cũng là lúc hoàng hôn buông xuống, em đưa mắt ngắm phong cảnh quê hương trong buổi hoàng hôn.
Cảnh hoàng hôn nơi đây đẹp tuyệt vời. Nếu em là một nhà thơ chắc chắn sẽ làm một bài thơ ca ngợi bức tranh thiên nhiên hữu tình này. Ở phía Tây, mặt trời rực đỏ đang từ từ lặn khuất dưới hàng dừa xanh, ánh rẽ quạt chiếu hắt lên bầu trời, chiếu xiên ngang mặt đất… Ở nơi xa, từ phía chân trời, từng đàn chim gọi bầy đang bay về tổ. Những cánh cò trắng muốt điểm một hàng dài trên bầu trời xanh trong ráng chiều nhạt dần như cuốn hút em.
Phía xa xa, nơi cánh đồng bạt ngàn, các bác nông dân đã vác cuốc thu dọn dụng cụ chuẩn bị về nhà. Từng tốp người xuất hiện trên đường làng nói nói, cười cười vui vẻ. Tiếng gọi nhau, tiếng máy cày, máy xới nổ ì ạch trên đường trở về. Chắc là máy của bác Tám – người nông dân lao động giỏi, giàu nổi tiếng vùng này đã từng được giới thiệu điển hình trên tivi.
Ánh nắng đã nhuộm vàng hàng cau hai bên đường, hương cau thoang thoảng càng quyến rũ lòng người. Em lại dõi mắt nhìn theo đôi chim vừa về tổ. Chúng kêu ríu rít. Các con chim non đang chíp chíp như gọi mẹ. Hai vợ chồng chim đang mớm mồi cho chúng. Nhìn cảnh ấy, em chợt mỉm cười một mình. Chỉ một chút nữa thôi mình cũng sẽ được như những con chim non kia. Ông bà sẽ ra đón cả nhà.
Bây giờ thì mặt trời đã lặn khuất sau hàng tre. Ánh sáng còn le lói phía tây, chân trời đùn lên những đám mây nhiều hình, nhiều vẻ, bóng tối lan dần trên bầu trời. Cảnh vật mờ dần, đôi chỗ sương trắng đã chập chờn. Người đi đường vắng hẳn, chỉ còn lác đác vài người trên cánh đồng.
Trong thôn, cây cối, nhà cửa đã nhòa đi trong ánh sáng mờ mờ. Khói bếp nhà ai đang lan tỏa trong bóng chiều như sương mờ bao phu. Bầu trời tối hẳn. Ánh sao đã nhấp nháy trên bầu trời. Màn tối đã bao phủ cánh đồng. Những ánh đèn đã bật sáng trong các gian nhà ở đầu thôn cuối xóm. Ông bà em đã đứng đợi cả nhà ở cửa lúc nào.
Thật là một buổi hoàng hôn đáng nhớ. Em chợt thấm thía điều mà mọi người thường ca ngợi “không có nơi đâu đẹp bằng quê hương mình”.
Có ai trong cuộc đời mà không từng cảm thấy gắn bó và yêu mến một ngôi trường nào đó. Đối với tôi thì đó chính là ngôi trường cấp hai (tên trường) – nơi tôi đang theo học.
Ngôi trường của tôi mới được xây dựng cách đây không lâu. Theo lời các thầy cô kể thì tính đến khóa học của khối lớp 6 chúng tôi là trường được xây dựng vừa tròn mười năm. Chính vì vậy, có lẽ, những học sinh như chúng tôi mang trong mình một vinh dự thật to lớn về ngày kỷ niệm mười năm ngày thành lập trường. Do được xây dựng chưa lâu nên nhìn từ bên ngoài, ngôi trường vẫn còn rất mới. Cổng trường, theo như tôi cảm nhận, được thiết kế và xây dựng theo phong cách cổ điển, khá giống với chiếc cổng của những nhà thơ mà tôi từng nhìn thấy trong những chuyến tham quan. Tôi không thể miêu tả một cách chi tiết về chiếc cổng vì tôi không phải là một kiến trúc sư. Nhưng có một điều tôi có thể chắc chắn. Chiếc cổng trường tôi cũng giống như biết bao chiếc cổng trường khác. Đó là nơi dành để viết tên trường phải thật trang trọng và dễ quan sát. Hàng chữ “Trường THCS…” được in nổi có màu vàng trông thật kiêu hãnh.
Đi sâu vào bên trong, bạn sẽ bắt gặp không gian sân trường không quá rộng lớn nhưng cũng đủ để học sinh toàn trường tập trung vào mỗi giờ chào cờ hay sinh hoạt cuối tuần. Những hàng cây cổ thụ trong sân trường được trồng thẳng tắp với những loài cây vốn quen thuộc với tuổi học trò như: bằng lăng, hoa phượng, xà cừ… Dưới những tán cây này, lũ học trò chúng tôi đã cùng nhau vui đùa trong những giờ ra chơi mà không lo nắng nóng. Cũng giống như nhiều ngôi trường khác, trường chúng tôi cũng bao gồm ba dãy nhà chính, được xây dựng theo kiểu hình chữ U. Mỗi dãy nhà gồm có ba tầng. Dãy nhà nằm giữa chính là dãy nhà hiệu bộ với là nơi làm việc của các thầy cô trong trường. Phía trước còn có sân khấu – nơi diễn ra các buổi lễ như khai giảng, bế giảng… Bên trong các phòng học đều được trang bị đầy đủ bảng viết, bàn ghế, quạt trần, điều hòa… rất tiện nghi. Ngoài ra, đa số các phòng học đều đã được trang bị máy chiếu để phục vụ cho việc giảng dạy của thầy cô cũng như việc học tập của học sinh đạt được hiệu quả cao hơn.
Ngoài dãy nhà chính, phía đằng sau còn có một không gian khá rộng hiện vẫn đang được xây dựng. Theo như lời các thầy cô nói thì nơi đây sẽ được xây dựng thành tòa nhà thể chất. Phía bên trong khi đưa vào hoạt động sẽ dành cho học sinh khi học tập bộ môn thể dục. Tôi rất háo hức chờ mong nhà thể chất sớm được hoàn thành.
Tuy mới học ở trường chưa lâu nhưng tôi cảm thấy vô cùng yêu thích không gian nơi đây. Hy vọng rằng những năm tháng học sinh của tôi sẽ thật ý nghĩa dưới mái trường (tên trường).
Nhà bà ngoại của em nằm ở một vùng quê nên có một khu vườn rất rộng. Trong vườn trồng rất nhiều loại cây khác nhau. Cứ mỗi khi được nghỉ hè về quê thăm bà, em lại cùng em trai ở trong vườn cây tới hàng giờ mà không chán. Điều khiến em thích thú nhất là được ngắm nhìn khu vườn vào mỗi buổi sớm.
Không khí buổi sáng trong vườn cây vô cùng trong lành và mát mẻ. Khi ông mặt trời vừa ló rạng cũng là lúc mọi vật được bao trùm bởi ánh nắng ấm áp. Những hạt sương đọng trên lá cây cũng dần tan biến. Làn gió khẽ lướt qua khiến những cành lá rung rinh.
Màu sắc nổi bật nhất trong khu vườn chính là màu xanh. Màu xanh của thảm cỏ. Màu xanh của lá cây. Màu xanh của những trái cây chưa chín. Màu xanh của thiên nhiên gợi ra một cảm giác thật tươi mới và mát mẻ.
Trong vườn, những cây ăn quả đều có hình dáng cao, lớn. Các cành cây đều vươn lên rất cao để đón lấy ánh nắng. Những tán lá xum xuê tỏa bóng mát xuống cho khu vườn. Có nhiều cây đã bắt đầu ra quả nên gọi biết bao nhiêu là loài chim tìm đến kêu ríu rít khắp cả khu vườn. Nghe sao mà thật vui tai!
Em trai em thường ở trong vườn hàng giờ để hái những quả chín hoặc chơi trò bắn chim. Em thì không giống vậy. Ở trong khu vườn, em thích nhất là những khóm hoa. Em rất thích ngắm nhìn chúng vào mỗi buổi sớm. Khi những giọt sương vẫn còn đọng trên những cánh hoa. Chúng giống như những viên ngọc trong suốt tô điểm cho bông hoa thêm phần đẹp đẽ. Nào là những nàng hoa hồng nhung đầy kiêu sa. Nào là cô mười giờ chưa chịu thức giấc. Nào là chị cẩm tú cầu thật lộng lẫy… Tất cả các loài hoa đều thật rực rỡ trong ánh nắng ban mai.
Khắp khu vườn lúc này, đâu cũng là hương thơm của những loài hoa. Đối với em, khu vườn nhà bà ngoại đã chứa đựng rất nhiều kỉ niệm đẹp đẽ bên bà. Đó là những buổi sáng hai bà cháu cùng nhau tưới nước cho cây cối trong vườn. Đó là khi bà hái từng chùm quả ngọt cho hai chị em thưởng thức. Đó là đêm hè lộng gió ngồi trước khu vườn nghe bà kể chuyện cổ tích.. Tuổi thơ bên khu vườn của bà thật nhiều tình cảm.
Mới sáng sớm em nhưng trong vườn đã thấy bạt ngàn ong bướm. Chúng dường như rất bận rộn với những công việc của mình. Những chú chim nhỏ cũng ríu tít cất tiếng hót như đang muốn chào đón một ngày mới. Tất cả tạo nên một thứ âm thanh lao xao mà đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ mãi.
Tôi cảm thấy vô cùng yêu thích khu vườn của bà ngoại. Nó không chỉ gắn bó với những kỉ niệm của tuổi thơ trong những buổi sớm mai. Mà còn gợi nhắc những kỉ niệm về bà ngoại – một người mà tôi hết mực yêu thương.
Mỗi dịp Tết đến là lòng em lại cảm thấy hân hoan. Không khí Tết khiến cho quê hương trở nên nhộn nhịp, vui tươi hơn.
Đường phố những ngày tết lúc nào cũng đông đúc, tấp nập. Đặc biệt là những khu chợ với những tiếng trao đổi mua bán. Chợ hoa Tết rực rỡ sắc màu của trăm loài hoa khoe sắc. Những cây đào, cây mai, cây quất đã trở thành biểu tượng của dịp Tết cổ truyền dân tộc.
Mọi người trong gia đình cùng nhau dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ để đón năm mới. Người lớn chuẩn bị mua sắm đồ Tết. Trẻ con háo hức mong từng ngày được nghỉ học. Khắp các khu chợ bỗng tấp nập hẳn lên. Tiếng người mua bán thật nhộn nhịp. Chợ Tết rất nhiều các mặt hàng từ đồ ăn, thức uống đến quần áo, giày dép… Ngày Tết chuộng nhất là màu đỏ, bởi vậy cả khu chợ như được sắc đỏ thắm bao bọc, tượng trưng cho may mắn. Vào ba mươi Tết, cả nhà em lại sum vầy bên mâm cơm giao thừa. Cả gia đình vừa ăn uống, vừa trò chuyện với nhau về những điều đã xảy ra trong một năm vừa qua.
Sau đó, em cùng em gái ngồi xem chương trình Gặp nhau cuối năm – Táo Quân và chờ đến mười hai giờ để xem pháo hoa. Màn pháo hoa rực rỡ khiến cho người xem cảm thấy xao xuyến. Khoảnh khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới đem đến cho con người những cảm xúc thật đẹp đẽ. Sáng mùng một Tết, cả nhà em cùng nhau đi chúc Tết họ hàng. Em thích nhất là được nhận những bao lì xì đỏ thắm. Mỗi bao lì xì kèm theo một lời chúc sức khỏe, bình an và may mắn.
Em rất yêu ngày Tết quê em. Không khí ngày Tết đem đến cho con người thật nhiều khoảng thời gian ý nghĩa bên gia đình thân yêu của mình.
Kì nghỉ hè năm nay, tôi được bố mẹ thưởng cho một chuyến du lịch. Đây là lần đầu tiên tôi được đi đến biển chơi, nên em cảm thấy vô cùng háo hức và mong chờ. Em hy vọng sẽ có nhiều kỉ niệm đẹp cùng với bố mẹ.
Đúng năm giờ sáng, xe xuất phát từ Hà Nội. Khoảng đến gần trưa thì xe đã đến nơi. Em cùng các bạn nhỏ cùng tuổi mình cảm thấy vô cùng thích thú vì sau một hành trình dài cuối cùng cũng đến Sầm Sơn. Sau khi đến khách sạn nhận phòng và cất đồ đạc. Mọi người cùng nhau đi ăn trưa, rồi nghỉ ngơi.
Buổi chiều, mọi người trong đoàn cùng đi tắm biển. Thật kì diệu! Em đang đứng trước một bài biển rộng mênh mông. Nước biển xanh và trong. Đứng gần biển em có thể nhìn thấy từng đợt sóng đánh vào bờ. Nhìn ra xa phía chân trời, bầu trời và biển như hòa vào làm một. Gió biển lồng lộng, cùng với tiếng sóng vỗ nghe thật vui tai. Bên cạnh bãi biển, núi Trường Lệ – một địa danh khá nổi tiếng ở đây, đứng sừng sững chạy dài theo mép nước. Phía nam dãy Trường Lệ còn có bãi tắm Tiên Ẩn, một thung lũng nhỏ với cảnh quan gần như nguyên sơ. Cuối bãi là đền Độc Cước cổ kính uy nghi, tọa lạc trên một hòn núi đá. Tất cả đều tuyệt đẹp như những bức ảnh mà em đã được xem trên mạng khi tìm hiểu về Sầm Sơn.
Bờ biển lúc này thật đông người. Tiếng nói cười rộn vang khắp cả không gian. Người lớn thích thú bơi lội dưới nước. Trẻ em thì nghịch cát, xây thành những tòa lâu đài tuyệt đẹp. Em cùng các bạn nhỏ mỗi người một chiếc phao, rồi nhảy xuống tắm biển. Nước biển mát lạnh khiến em cảm thấy vô cùng dễ chịu. Sau khi tắm biển xong, mọi người cùng nhau đi ăn đồ hải sản nướng. Các món ăn đều rất ngon và mang đậm hương vị của biển.
Thời gian trôi qua thật nhanh. Chuyến du lịch ba ngày hai đêm đã kết thúc. Nhưng em cảm thấy vô cùng hạnh phúc vì đã có những trải nghiệm vô cùng thú vị ở đây. Em mong sẽ có thêm nhiều chuyến du lịch như vậy cùng với gia đình của mình.
Giờ Trái Đất là một sự kiện được hưởng ứng ở địa phương em cũng như trên toàn bộ đất nước Việt Nam.
Mục đích của sự kiện “Giờ Trái Đất” nhằm đề cao việc tiết kiệm điện năng, giảm lượng khí thải đi-ô-xít các-bon – một khí gây ra hiệu ứng nhà kính, đồng thời thu hút sự chú ý của mọi người về ý thức bảo vệ môi trường. Chiến dịch này cũng nhằm khẳng định quan điểm cho rằng mỗi một hành động cá nhân khi được nhân lên trên diện rộng có thể giúp làm thay đổi môi trường sống của chúng ta theo hướng ngày càng tốt hơn.
Một số việc thường làm khi diễn ra sự kiện “Giờ Trái Đất” như tắt đèn và các thiết bị điện không cần thiết trong khoảng một tiếng đồng hồ (theo quy định của ban tổ chức); Tăng cường sử dụng các phương tiện di chuyển xanh (như tăng thời gian đi bộ, sử dụng xe đạp, xe buýt công cộng…); Vận động gia đình, bạn bè, đồng nghiệp… cùng tham gia hưởng ứng Giờ Trái Đất…
Như vậy, “Giờ Trái Đất” là một sự kiện tốt đẹp, cần được phổ biến rộng rãi hơn trên toàn thế giới.
Ngày 15 tháng 12 năm 2023, trận chung kết bóng đá lượt về trong khuôn khổ Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á đã diễn ra tại sân Mỹ Đình ở thủ đô Hà Nội. Trận đấu giữa hai đội bóng xuất sắc là Đội tuyển Quốc gia Việt Nam và Đội tuyển Quốc gia Malaysia.
Từ sớm, cả gia đình của em đã đến sân để cổ vũ cho đội nhà. Sân vận động được nhuộm đỏ bởi sắc màu của những lá quốc kì. Các cầu thủ của đội tuyển Việt Nam ra sân với trang phục áo đỏ, quần đỏ. Còn các cầu thủ Malaysia ra sân với trang phục áo vàng, quần vàng.
Trận đấu bắt đầu sau tiếng còi khai cuộc của trọng tài. Ngay từ những phút đầu tiên, đội bạn đã tấn công để tìm kiếm bàn thắng. Nhưng hàng thủ của đội tuyển Việt Nam vẫn thi đấu tập trung. Vào phút thứ sáu, từ đường chuyền của cầu thủ Nguyễn Quang Hải, cầu thủ Nguyễn Anh Đức đã giúp Việt Nam dẫn trước 1- 0. Cuộc đấu vẫn diễn ra trong thế trận ngang bằng. Đội tuyển Malaysia liên tục tấn công để tìm kiếm bàn gỡ hòa. Nhưng hàng phòng ngự chắc chắn của đội tuyển Việt Nam khiến cho đối thủ bất lực. Hiệp một kết thúc với tỉ số 1 – 0 nghiêng về đội chủ nhà.
Mười lăm phút giải lao kết thúc, hiệp hai bắt đầu. Đội bạn đã có tình huống đá phạt rất thuận lợi để quân bình tỉ số. Nhưng thủ môn Đặng Văn Lân đã xuất sắc cứu thua cho đội nhà. Nhiều tình huống sau đó cũng vậy. Thời gian gần trôi về những phút cuối cùng. Hiệp hai có bốn phút bù giờ. Những khán giá ở trên sân đều đếm ngược để chờ trọng tài thổi còi kết thúc trận đấu.
Khi tiếng còi vang lên, khán giả trên sân reo vang “Việt Nam vô địch”. Các cầu thủ chạy đến cảm ơn người hâm mộ. Huấn luyện viên Park Hang-seo được các học trò tung lên cao. Một hành động tri ân dành cho người thầy đáng kính đã góp phần làm nên thành công này. Những lá cờ đỏ sao vàng tung bay. Sân vận động Mỹ Đình vào lúc này thật đẹp.
Chủ nhật tuần này, em cùng với chị Thu đã có một chuyến tham quan ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Sau chuyến tham quan, em đã biết thêm rất nhiều kiến thức bổ ích.
Hai chị em đi xe buýt mất khoảng một tiếng là đến nơi. Bước qua cánh cổng bảo tàng, em nhìn thấy một khối nhà mái vòm rất lớn. Phía trên có in một dòng chữ bằng đá rất nổi bật: “Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam”. Chị Thu đã đi mua vé tham quan. Sau đó, chúng em đã đi tham quan bảo tàng theo sơ đồ hướng dẫn.
Bảo tàng được chia làm ba khu trưng bày chính: tòa nhà Trống Đồng, khu trưng bày ngoài trời (Vườn Kiến trúc) và tòa Cánh diều (khu trưng bày Đông Nam Á). Em và chị Thu lần lượt tham quan các khu trưng bày. Đầu tiên là tòa nhà Trống Đồng là nơi trưng bày, giới thiệu bản sắc năm mươi tư dân tộc. Tại đây có khoảng nhiều hiện vật, thước phim và hình ảnh miêu tả đời sống sinh hoạt, trang phục, y phục, nông cụ và tôn giáo tín ngưỡng cũng như các tục lệ của đồng bào dân tộc.
Sau khi ra khỏi tòa nhà Trống Đồng, chúng em nhìn thấy một khoảng sân lớn, đó chính khu trưng bày ngoài trời. Em đã được chiêm ngưỡng những kiến trúc độc đáo của người nhiều dân tộc nhà rông của người Ba-na, nhà sàn dài của người Ê-đê, nhà sàn của người Tày, nhà nửa sàn nửa đất của người Dao, nhà trệt lợp ván pơmu của người H’mông, nhà ngói của người Việt, nhà sàn thấp của người Chăm, nhà trình tường của người Hà Nhì, nhà mồ tập thể của người Giarai và nhà mồ cá nhân của người Cơtu… Em và chị Thu đã chụp khá nhiều bức ảnh kỉ niệm cùng với những ngôi nhà sàn độc đáo này.
Cuối cùng là khu trưng bày Đông Nam Á. Tòa nhà này gồm có bốn tầng được mô phỏng theo hình Cánh diều. Nơi đây thường trưng bày về các văn hóa ngoài Việt Nam (Văn hóa Đông Nam Á, Tranh kính Indonesia, Một thoáng châu Á và Vòng quanh thế giới)…; ngoài ra còn có hội trường, phòng chiếu phim, phòng đa phương tiện. Đây cũng là không gian mà em thích nhất.
Kết thúc một ngày tham quan rất bổ ích. Em đã có rất nhiều trải nghiệm thú vị. Em mong rằng mình sẽ có thêm nhiều chuyến đi như vậy hơn.
Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình đôi khi thường xảy ra các xung đột. Điều đó đòi hỏi mỗi thành viên cần có những giải pháp để giải quyết các xung đột, xây dựng một gia đình hòa thuận và hạnh phúc.
Đầu tiên, nguyên nhân của xung đột trong gia đình đến từ sự khác biệt trong về nhận thức, quan điểm hay suy nghĩ giữa cha mẹ và con cái. Từ đó đã tạo nên những xung đột về tâm lý là đặc điểm nổi bật mang tính quy luật. Điều đó là do hoàn cảnh sống, thời gian sống và sự khác nhau về thế hệ, sự chênh lệch về kinh nghiệm sống đã tạo nên khoảng cách dẫn đến xung đột.
Cha mẹ luôn mong muốn con cái phải nghe theo những quy định mình đặt ra từ khi con còn bé. Trong suy nghĩ, cha mẹ luôn cho rằng con cái là còn bé bỏng nên cha mẹ cần phải kiểm soát mọi hoạt động, con cái phải phụ thuộc vào mọi quyết định của mình. Đồng thời, nhiều cha mẹ chưa có sự hiểu biết cần thiết về những thay đổi về tâm sinh lí của con. Cha mẹ muốn duy trì sự phụ thuộc của con cái vào cha mẹ trong các hoạt động của cuộc sống hàng ngày…
Advertisement
Về phía con cái, trong độ tuổi dậy thì, tâm sinh lý sẽ có sự thay đổi, nhiều bạn cho đã suy nghĩ “về sự trưởng thành” và có cảm giác “mình là người lớn”. Ở độ tuổi này, nhận thức về “cái tôi cá nhân” và “quyền riêng tư” với những nhu cầu độc lập của bản thân cũng tăng lên rõ rệt. Từ sự thay đổi trên dẫn đến con cái muốn vượt qua sự kiểm soát, quản lý của bố mẹ.
Một gia đình hạnh phúc là một gia đình luôn có sự thấu hiểu, chia sẻ. Mỗi người hãy biết cách xây dựng và bảo vệ gia đình của mình trở nên tốt đẹp hơn.
Tuy rằng, sự đóng góp của tôi chỉ vô cùng nhỏ bé thôi nhưng hy vọng rằng sẽ giúp đỡ được người dân miền Trung, đặc biệt là các bạn học sinh như chúng tôi.
Sau khi cha mẹ mất, tôi và anh trai sống cùng nhau. Chúng tôi chăm chỉ làm lụng nên cũng đủ ăn. Từ ngày có vợ, anh của tôi đâm ra lười biếng. Vợ chồng tôi phải làm lụng vất vả mới có của ăn của để.
Một hôm, anh trai gọi tôi đến bàn bạc chuyện chia gia tài. Vì là phận em, tôi xin được nghe theo lời anh. Tôi nhận được một túp lều nhỏ, ở trước cửa có một cây khế. Dù khó khăn, nhưng tôi và vợ vẫn sống hạnh phúc, êm đềm. Hằng ngày, tôi và vợ vẫn thay nhau chăm sóc cây khế. Đến mùa, những chùm quả chín lúc lỉu trên cây. Tôi và vợ bàn nhau hái khế ra chợ bán. Sáng hôm đó, tôi ra vườn cây để hái khế thì nghe thấy trên ngọn cây có tiếng rung mạnh như có người. Tôi gọi vợ ra xem, thì nhìn thấy một con chim lớn đang ăn khế chín. Tôi lấy làm lạ lắm, chưa bao giờ thấy một con chim nào to như vậy. Tôi liền bảo vợ cứ đợi cho chim ăn xong mới ra hái. Suốt một tháng trời, hằng ngày chim cứ đến ăn vào lúc sáng sớm.
Vợ tôi xót ruột. Một hôm thấy chim đang ăn khế, liền chạy ra nói:
– Ông chim ơi, ông ăn như thế thì nhà cháu còn khế đâu mà bán! Cả nhà cháu chỉ nhờ vào cây khế thôi!
Chim nói:
– Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang mang đi mà đựng!
Nghĩ đây chắc hẳn là chim thần, tôi bảo vợ làm theo lời chim nói. Sáng sớm hôm sau, chim thần bay đến. Tôi xách túi ra, chim nằm rạp xuống đất cho tôi trèo lên. Tôi ngồi trên lưng chim mà lòng có chút lo lắng. Chim bay qua bao nhiêu là miền, hết đồng ruộng đến rừng xanh, hết rừng xanh đến biển cả. Ra tới giữa biển, chim rẽ vào một cái đảo, rồi đáp xuống cửa một cái hang.
Chim ra hiệu cho tôi bước vào. Ngay từ cửa đã có rất nhiều thứ đá trong như thủy tinh và hổ phách đủ thứ màu. Tôi thấy hang sâu và rộng nên không dám vào, chỉ dám nhặt ít vàng, kim cương ở ngoài rồi ra ngoài. Tôi bảo chim thần bay về. Chim lại cất cánh đưa tôi về nhà. Từ đó, cuộc sống của gia đình tôi trở nên khá giả hơn trước. Chúng tôi còn giúp đỡ được rất nhiều người dân nghèo khổ.
Một hôm, anh trai của tôi đến chơi. Tôi đoán biết anh nghe được chuyện nên đến hỏi thăm. Nghe anh hỏi chuyện, tôi liền kể cho anh nghe. Anh liền thương lượng để đổi tài sản của mình lấy túp lều và cây khế. Thầy anh nài nỉ mãi, tôi cũng ưng thuận.
Kể từ đó, anh trai và chị dâu của tôi dọn đến ở trong túp lều. Tôi nghe người trong làng kể lại. Hằng ngày, họ chỉ ngồi ăn rồi chờ chim đến. Một buổi sáng nọ, khi thấy luồng gió mạnh nổi lên, và ngọn cây khế rung chuyển. Họ biết là chim thần đến liền nói:
– Chim thần ơi, cả nhà tôi trông vào cây khế, bây giờ chim ăn thì tôi lấy gì mà sống?
Chim thần cũng nói y như với tôi:
– Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang mang đi mà đựng!
Anh trai và chị dâu của tôi cứ bàn qua tính lại. Rồi cuối cùng họ quyết định may cái túi to gấp ba lần, như một cái tay nải lớn. Sáng hôm sau, chim thần đến đưa anh tôi ra hòn đảo. Nhìn thấy vàng bạc, kim cương, anh trai tôi cố nhặt cho đầy túi. Không chỉ vậy, anh ta còn cho cả vào túi quần, túi ào. Trên đường về, vì quá nặng lại gặp gió lớn, chim đâm bổ xuống biển. Anh trai tôi bị sóng cuốn trôi, bao nhiêu của cải mất hết. Còn chim thần chỉ bị ướt lông, ướt cánh nên lại vùng lên trời bay đi. May có người dân đánh cá ngang qua mới cứu được. Anh trai tôi trở về, kể rõ sự tình cho tôi nghe và tỏ ra rất hối hận.
Năm nay, em được về quê ngoại ăn Tết. Em đã có rất nhiều trải nghiệm thú vị bên những người thân yêu.
Chiều ba mươi Tết, mọi người trong gia đình đều bận rộn. Ông, bố và anh trai của em thì dọn dẹp nhà cửa. Còn bà và mẹ thì lo chuẩn bị mâm cơm cúng Tất niên. Em chạy quanh nhà giúp đỡ mọi người những công việc nhỏ. Ai cũng đều háo hức đón chờ một năm mới sắp đến. Chẳng mấy chốc, nhà cửa đã sạch sẽ, gọn gàng. Mâm cơm cúng Tất niên cũng rất đầy đủ, đẹp mắt. Mọi người ăn mặc thật chỉnh tề, và đứng trước bàn thờ gia tiên để thắp hương cho ông bà tổ tiên. Em cảm nhận được không khí vô cùng thiêng liêng, trang trọng.
Sau đó, cả gia đình cùng quân quần bên mâm cơm Tất niên. Đầu tiên, ông nội thay mặt cả gia đình tổng kết lại một năm. Khuôn mặt các thành viên hết sức nghiêm trang. Bầu không khí vô cùng yên tĩnh. Chỉ có giọng nói của ông vẫn ôn tồn, vang vọng. Sau khi ông phát biểu, mọi người cùng nâng ly để chúc mừng năm mới. Tiếng hô vang: “Chúc mừng năm mới” khiến em cảm nhận được Tết đã sắp đến gần.
Sau bữa cơm giao thừa, cả gia đình của em quây quần bên chiếc vô tuyến để xem các chương trình Tết. Mọi người vừa xem vừa trò chuyện rôm rả. Không khí thật ấm cúng biết bao. Đến mười hai giờ, em sẽ chúc Tết ông bà, bố mẹ và nhận được những phong bao lì xì đỏ thắm.
Khung cảnh sinh hoạt vào dịp Tết thật rộn ràng, vui tươi. Dịp Tết cũng là khoảng thời gian để con người sum vầy bên gia đình. Mỗi kỉ niệm cùng với người thân đều vô cùng đáng quý. Từ đó chúng ta càng biết yêu mến và trân trọng hơn gia đình.
Bài Văn Mẫu Lớp 7: Bài Viết Số 5 (Đề 1 Đến Đề 5) Tuyển Tập 42 Bài Văn Mẫu Lớp 7 Hay Nhất
Bài viết số 5 lớp 7 gồm 5 đề như sau:
Đề 1: Ít lâu nay, một số bạn trong lớp em có phần lơ là học tập. Em hãy viết một bài văn để thuyết phục bạn: Nếu khi còn trẻ ta không chịu khó học tập thì lớn lên sẽ chẳng làm được việc gì có ích!
Đề 2: Hãy chứng minh rằng bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của chúng ta.
Đề 3: Dân gian ta có câu tục ngữ: Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng. Nhưng có bạn lại bảo: Gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng. Em hãy viết một bài văn chứng minh thuyết phục bạn ấy theo ý kiến của em.
Đề 4: Hãy chứng minh rằng đời sống của chúng ta sẽ bị tổn hại rất lớn nếu mỗi người không có ý thức bảo vệ môi trường sống.
Đề 5: Hãy trình bày nổi bật lối sống vô cùng giản dị, thanh bạch của Bác Hồ.
Bài viết số 5 lớp 7 đề 1 Bài viết số 5 lớp 7 đề 1 – Mẫu 1Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập và phát triển, muốn xây dựng một đất nước Việt Nam giàu mạnh thì cần có một đội ngũ nhân lực thực sự mới có thể đáp ứng yêu cầu phát triển được. Để có được điều đó mỗi học sinh chúng ta ngay từ bây giờ phải có thái độ học tập thật nghiêm túc, chăm chỉ chịu khó học tập để xây dựng cho mình vốn kiến thức và kinh nghiệm sống để sau này trở thành những con người có ích cho xã hội.
Học ở đây là con đường tiếp thu, lĩnh hội tri thức. Đây là quá trình lâu dài giúp mỗi con người có thể chiếm lĩnh được tri thức vô tận của thế giới. Học cho bản thân và học cho sự phát triển của xã hội. Học tập từ xưa đến nay luôn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển con người. Nó là chìa khóa vạn năng, là cánh cửa rộng mở cho tương lai, giúp con người làm giàu cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Học không chỉ có vai trò quan trọng với bản thân mỗi con người, mà còn có vai trò nhất định đối với xã hội. Học tập chính là động lực để xã hội lớn mạnh, ngày càng phát triển, tiến đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây cũng là con đường nhanh nhất đưa nước ta có thể sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hồ đã khẳng định.
Walt Disney, ông trùm của hãng hoạt hình Walt Disney, là người sáng lập nên hãng phim hoạt hình nổi tiếng trên thế giới đã khơi nguồn cảm hứng cho hàng triệu triệu người trên thế giới. Gặp phải nhiều thất bại trong cuộc sống, tuổi thơ đầy khó khăn, vất vả và vấp phải khá nhiều những thất bại trong cuộc sống. Tuy vậy, ông vẫn học tập không ngừng và vươn lên để đạt được thành công vang dội như hiện tại. Abraham Lincoln là tổng thống thứ 16 của nước Mỹ. Ông chính là tấm gương sáng của sự tự lập, biết phấn đấu vươn lên để trở thành người quyền lực nhất nước Mỹ. Dù xuất thân trong gia đình nghèo khó, thiếu thốn nhưng ông luôn cố gắng, nỗ lực không ngừng. Ông gặp phải nhiều thất bại nhưng sau đó, ông đều coi đó là động lực để tiếp tục con đường học tập, trải nghiệm để gặt hái thêm nhiều thành công khác. Hay như Thomas Edison được biết đến là nhà phát minh vĩ đại nhất mọi thời đại, làm thay đổi cuộc sống của cả nhân loại. Thời gian khi còn đi học, các thầy cô đều cho rằng ông “quá ngu ngốc để không thể học bất cứ thứ gì”. Vậy nhưng chính Edison đã cố gắng để chứng minh cho họ biết họ đã sai. Ông làm thí nghiệm đến 10.000 lần, và đều thất bại trước khi phát minh ra bóng đèn điện, mang đến cuộc cải cách cho lịch sử nhân loại. Ở Việt Nam, từ xa xưa, tinh thần hiếu học của cha ông ta đã được minh chứng rất rõ qua các tấm gương sáng về học tập. Mạc Đĩnh Chi, Cao Bá Quát đều là những con người hiếu học. Tấm gương tiêu biểu nhất có thể kể đến là chủ tịch Hồ Chí Minh, một con người dành trọn cả đời để học tập và rèn luyện, phấn đấu không ngừng…
Con đường học tập có rất nhiều những hình thức khác nhau. Bạn có thể học ở trường phổ thông, học nghề, học để nâng cao chuyên môn… Bạn có thể học ở nhà trường, học trên sách vở, báo đài, học ngoài thực tế hay học ở bạn bè… Học không chỉ là điều kiện cần và đủ để được bằng cấp, để có việc làm mà học để không ngừng nỗ lực hoàn thiện chính bản thân mình về mọi mặt, từ kiến thức, kĩ năng đến thái độ. Hãy đưa ra một giả thuyết, nếu bạn không học, bạn không thể sửa một chiếc quạt khi hỏng, bạn cũng không thể lắp một chiếc xe đạp đầy đủ phụ tùng. Chính vì thế, học để đem lại kiến thức lý thuyết cho bản thân cũng như đem lại những kĩ năng để vận dụng thực hành cho cuộc sống.
Vậy nên nếu chúng ta không chăm chỉ học tập ngay từ bây giờ thì rất có thể sau này dễ bị nghèo nàn, lạc hậu, cá nhân bất tài vô dụng, không biết lý lẽ, phân biệt đúng sai, dễ bị cám dỗ… Học sinh chúng ta hôm nay ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường hãy nỗ lực phấn đấu trong học tập, quyết tâm học thật giỏi và rèn luyện tính cần cù, chăm chỉ trong việc học để sau này chúng ta sẽ thành công trong công việc sau này, có một cuộc sống ổn định.
Bài viết số 5 lớp 7 đề 1 – Mẫu 2Việc học tập có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của con người. Và nếu như khi còn trẻ không chịu khó học tập thì lớn lên sẽ chẳng làm được việc ì có ích.
Trải qua gần một trăm năm dưới ách nô lệ của thực dân Pháp, hai mươi năm chống đế quốc Mĩ, nhân dân Việt Nam đã bỏ biết bao công sức, trí tuệ cho sự nghiệp độc lập, tự do của Tổ quốc, và hôm nay, trên con đường hội nhập với thế giới, Việt Nam đã trở thành một nước công nghiệp hoá, đang trên đà phát triển. Chúng ta có quyền tự hào bởi ta là người Việt Nam, được sinh ra trên mảnh đất anh hùng, luôn tồn tại những con người kiên cường, bất khuất, đầy trí tuệ, thông minh và sáng tạo. Thế nhưng có khi nào thế hệ tuổi trẻ Việt Nam chúng ta, những người thanh niên sắp là chủ nhân tương lai của đất nước trong thời đại mới nghĩ đến những tiến bộ, những mặt còn hạn chế của chính mình, để từ đó có những kết luận đúng đắn giúp đất nước ngày càng đi lên, hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn.
Qua thực tế, ta nhận thấy vẫn còn rất nhiều bạn còn mải chơi, bỏ học coi việc học là nghĩa vụ nặng nề mà bố mẹ giao cho, chẳng nghiêm túc và tự giác trong học tập… Đó là những con người lười nhác, chỉ hưởng không công, những người còn đang ngủ quên trên chiến thắng của dân tộc, chưa xác định được lí tưởng sống đúng đắn. Đó là những biểu hiện thật hổ thẹn với quá khứ hào hùng của cha anh, một vấn đề mà hiện nay ta cần phải quan tâm và xem xét bởi vì “Nếu khi còn trẻ ta không chịu khó học tập thì lớn lên sẽ chẳng làm được việc gì có ích”. Trong những năm học phổ thông, học sinh được cung cấp những kiến thức hết sức căn bản, nhưng nếu chúng ta không chăm chỉ học hành, lơ là, chểnh mảng thì sẽ không nắm vững được kiến thức một cách có hệ thống mà còn tốn thời gian, tiền bạc và kết quả thu được cũng chẳng đáng là bao, huống chi là cả một kho tàng tri thức khổng lồ về tự nhiên và xã hội mà nhân loại đã tích lũy suốt mấy ngàn năm lịch sử và những kiến thức tân tiến, hiện đại của khoa học kĩ thuật bây giờ mà nếu chúng ta không học thì sẽ trở thành những con người lạc hậu và chậm tiến. Vì thế, việc làm trước tiên của thanh niên trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là phải học tập, trang bị thật tốt cho mình vốn kiến thức, hiểu biết về thế giới, khoa học và con người… Học tập tốt không chỉ giúp ta góp phần xây dựng một đất nước vững mạnh, phát triển và phồn vinh mà còn là con đường tốt nhất giúp ta đi đến một tương lai tương sáng và tốt đẹp.
Không chỉ dừng lại ở việc học, thanh niên, học sinh còn phải hoàn thiện bản thân, tu dưỡng và rèn luyện về đạo đức. Có lòng thương người và đối xử với người theo lẽ phải, đó là nhân nghĩa, là truyền thống cao đẹp của người Việt Nam mà chúng ta cần duy trì và phát triển và thiết thực nhất đó là sự kính trọng, biết ơn, hiếu thảo với cha mẹ, ông bà… và quan tâm, chia sẻ, nhường nhịn với những người xung quanh, cảm thông và sẵn sàng giúp đỡ mọi người khi gặp khó khăn, hoạn nạn, luôn có thái độ kính trọng và biết ơn với những người đã có công với đất nước…
Đặc biệt, thanh niên cần tích cực rèn luyện một lối sống trong sáng, lành mạnh, tránh xa các tệ nạn xã hội như cờ bạc, thuốc lá, ma tuý… và những thói hư tật xấu, lối sống lai căng, thực dụng, xa rời các truyền thống văn hóa của xã hội bởi chúng có tác hại ghê gớm cho bản thân, gia đình, xã hội về tư tưởng đạo đức, sức khỏe, kinh tế, nòi giống…
(Hồ Chí Minh)
Mỗi người chúng ta đều có những mặt mạnh, yếu khác nhau, không ai là hoàn mỹ cả, mặt khác, xã hội luôn không ngừng phát triển, vì vậy, thanh niên phải luôn tự hoàn thiện bản thân mình, biết vượt lên mọi khó khăn, trở ngại, biết phát huy ưu điểm, khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, học hỏi những điều hay, điều tốt của người khác. Có như thế thì bản thân, gia đình, cộng đồng sẽ ngày một phát triển tốt hơn, tiến bộ hơn.
(Tố Hữu)
Tóm lại, thanh niên chúng ta cần phải phấn đấu học tập, xác định mục tiêu học tập đúng đắn, coi việc học tập khoa học kĩ thuật là then chốt, trở thành những nhà khoa học trẻ tuổi tương lai, những thanh niên xung phong trong thời đại mới, có kích thích sáng tạo, tìm tòi cái mới, ứng dụng lí thuyết vào đời sống thực tế, học hỏi không ngừng, có tình yêu quê hương đất nước, nhận lãnh trách nhiệm là người chủ nhân tương lai của đất nước, là thành viên ưu tú của xã hội. Song song đó, chúng ta cần tránh xa những cạm bẫy của thói hư tật xấu, của tệ nạn xã hội, luôn có ý thức bảo vệ môi trường sống, bảo vệ phẩm cách trong sáng, bảo vệ gia đình, xã hội, truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc.
Những hành động trên là vô cùng thiết thực trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa này, những điều mà ai trong chúng ta cũng có thể làm được để đất nước ngày càng phát triển và có thể sánh đôi với các cường quốc khác, góp phần bảo vệ, xây dựng đất nước Việt Nam ngày một giàu đẹp hơn.
Bài viết số 5 lớp 7 đề 1 – Mẫu 3Lê-nin từng khẳng định: “Học, học nữa, học mãi” – bất kỳ ở một lứa tuổi nào con người cũng cần phải không ngừng học hỏi. Tuy nhiên, việc học tập được coi là nhiệm vụ quan trọng nhất đối với tuổi trẻ. Và nếu như khi còn trẻ, chúng ta không chịu cố gắng học tập thì lớn lên sẽ chẳng làm được việc gì có ích.
Đầu tiên, học là sự thu nhận kiến thức từ người khác truyền lại, rèn luyện thành kỹ năng, nhận thức. Không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của việc học tập. Học tập mang lại cho học sinh rất nhiều lợi ích to lớn. Trước hết là nó cung cấp nguồn tri thức vô tận, kết nối bản thân và thế giới, giúp con người thành công trong cuộc sống. Không học tập thì không thể làm được điều gì lớn lao. Nhờ tự giác học tập mà con người có thể vượt xa những gì bắt buộc phải học. Con người vươn lên hiểu biết và kết nối mình với thế giới rộng lớn, tìm kiếm nhiều hơn những cơ hội để thành công. Học tập không phải là con đường duy nhất, nhưng lại là con đường ngắn nhất giúp con người đến với thành công. Đặc biệt khi còn trẻ thì việc chăm chỉ học tập là vô cùng cần thiết. Bởi đây là thời điểm mà con người có nhiều thời gian, sức khỏe và trí tuệ nhất. Họ có thể dễ dàng tiếp thu một khối lượng kiến thức lớn, có khả năng tư duy dựa trên năng lực cá nhân.
Bác Hồ – một lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Người sinh ra trong một gia đình có truyền thống hiếu học. Ngay từ khi còn nhỏ, Bác luôn chăm chỉ học tập, cho đến khi trưởng thành, ra đi tìm đường cứu nước, Bác đã tự mình học hỏi để rồi có được một vốn hiểu biết phong phú nhiều ngôn ngữ như Anh, Pháp, Hoa, Nga… Bác chính là tấm gương sáng ngời về tinh thần không ngừng học tập.
Trong xã hội hiện đại, với sự phát triển của khoa học công nghệ giúp cho việc học tập trở nên dễ dàng hơn. Nhưng chính điều đó lại tạo ra những cám dỗ khiến cho học sinh xao nhãng việc học tập. Có thể kể ra một số trường hợp như nhiều bạn học sinh bỏ học trốn đi chơi điện tử, trong lớp học không chú ý nghe giảng… Khi còn trẻ là khi chúng ta có sức khỏe, có nhiệt huyết nhưng nếu không chịu cố gắng học tập, thì sau này bạn sẽ phải cố gắng gấp đôi người khác.
Tích lũy tri thức là một quá trình dài, một quá trình bền vững. Không phải ngày một ngày hai mà chúng ta có thể tích lũy khối lượng tri thức vô tận. Tục ngữ có câu “Có công mài sắt có ngày nên kim” hay “Có chí thì nên” . Nếu chịu khó học tập, chắc chắn bạn sẽ nhận được trái ngọt.
Bài viết số 5 lớp 7 đề 1 – Mẫu 4“Người không học như ngọc không mài” – học tập có vai trò quan trọng đối với mỗi người. Bởi vậy, khi còn trẻ, chúng ta không chịu cố gắng học tập thì lớn lên sẽ chẳng làm được việc gì có ích.
Có thể hiểu đơn giản rằng học là sự tiếp thu và ghi nhớ những kiến thức được người khác giảng dạy, truyền đạt lại. Nhiệm vụ chính của mỗi học sinh – chủ nhân tương lai của đất nước chính là không ngừng học tập. Những kiến thức được tích lũy trong quá trình học, sẽ trở thành một hành trang quan trọng để bước vào cuộc sống. Mặc dù, học tập không phải là con đường duy nhất, nhưng lại là con đường ngắn nhất để bước tới thành công. Nhờ có những kiến thức thu nhận được qua việc học tập, mà chúng ta có được sự tự tin, bản lĩnh để đương đầu với mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Thế kỷ XXI là thế kỷ của sự phát triển khoa học – công nghệ. Mọi thiết bị máy móc tiên tiến được tạo ra có thể thay thế cho con người trong quá trình lao động. Nếu không học tập, rèn luyện để nâng cao trình độ của bản thân. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ bị xã hội đào thải, trở thành người vô dụng.
Lê-nin từng khẳng định: “Học, học nữa, học mãi” – việc học tập cũng chính là một quá trình không ngừng nghỉ. Dù ở bất cứ độ tuổi nào, việc học tập vẫn luôn cần được duy trì. Từ khi còn là một chàng thanh niên, đến khi trở thành vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn học hỏi không ngừng. Để từ đó, Người mới có được vốn kiến thức sâu rộng, thông thạo nhiều ngôn ngữ. Bác chính là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ noi theo về việc học tập ngừng nghỉ.
Dù vậy, nếu khi còn trẻ, chúng ta không chịu cố gắng học tập. Đến khi lớn tuổi thì mắt đã mờ, chân đã chậm và trí nhớ đã giảm thì việc học sẽ thật khó khăn. Thời gian để học tập cũng không còn nhiều. Việc học phải bắt đầu từ khi còn trẻ, và phải là một quá trình kiên trì, nỗ lực hằng ngày thì mới đạt được hiệu quả cao. Thế hệ trẻ hôm nay cần hiểu được điều đó để tự giác học tập, trau dồi cho bản thân kiến thức và kĩ năng.
Như vậy, mỗi người hãy ý thức được điều đó để tích cực tự mình trau dồi và học hỏi. Bởi không có con đường nào đến với thành công ngắn hơn con đường học tập.
……….
Bài viết số 5 lớp 7 đề 2 Bài viết số 5 lớp 7 đề 2 – Mẫu 1Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã từng viết:
Vâng, tình yêu cần thiết cho con người như thế nào thì thiên nhiên cũng cần thiết cho con người như thế ấy. Chính vì vậy mà thật chính xác khi nói rằng “bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của chúng ta”.
Thật vậy, những cánh rừng bát ngát xanh từ bao đời nay đã gắn bó với con người như một người bạn tốt. Rừng ví như một lá phổ khổng lồ để thanh lọc bầu không khí của con người. Nhịp thở đều đặn, kiên nhẫn của rừng cũng chính là nhịp thở khỏe mạnh của mỗi thân thể cường tráng của chúng ta. Rừng còn là một bức bình phong vĩ đại, một vành đai vững chắc để tránh gió bão từ biển khơi cuồng nộ cuốn vào hòng phá tan cuộc sống của chúng ta. Cũng nhờ vành đai ấy mà đất đai không bị sạt lở, cuốn trôi ra biển. Cuộc sống con người chỉ thực sự yên bình khi ngoài kia, những cánh rừng được phủ xanh bát ngát, vẫn rì rào cùng gió ngàn muôn thuở. Chưa hết, rừng còn chứa đựng trong lòng nó biết bao tài nguyên quý giá. Bên cạnh nguồn cung cấp gỗ quý phục vụ xuất khẩu, sinh hoạt của con người. Rừng còn là nguồn dược liệu vô cùng quan trọng. Biết bào loài thực vật đã trở thành những bài thuốc có giá trị chữa bệnh cho con người. Rừng còn là xứ sở của những loài động vật phong phú, đa dạng, đóng góp biết bao lợi ích cho cuộc sống của chúng ta. Những mỏ khoáng sản mà con người tìm thấy từ sâu thẳm trong lòng đất cũng đã nói với chúng ta rằng: sự có mặt của rừng là một phần không thể thiếu trong sự sống và phát triển nhiều mặt của con người.
Còn nhớ, trong những năm chiến tranh ác liệt, rừng cũng đã không ngại dâng hiến sức vóc của mình để che chở cho con người và góp phần lập chiến công. “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Rừng cũng đã phải gánh chịu những mất mát, hy sinh, những tổn thất nặng nề như dân tộc chúng ta: những trận bom rung trời chuyển đất, những đợt đại bác liên hồi và tàn bạo, nhất là chất độc màu da cam… đã làm bao cánh rừng cụt ngọn, cháy két, nham nhở vết thương. Nhưng, kì diệu thay, cũng như con người Việt Nam, rừng vẫn không chịu đầu hàng, kiêu hãnh vươn lên trong tư thế kiên cường, bất khuất. Những cánh rừng đi ra từ chiến tranh dần hồi sinh, mạnh mẽ, giàu sức sống hơn xưa. Rừng đã cùng chúng ta đánh giặc. Rừng lại tiếp tục cùng ta dựng xây một Việt Nam ngày càng lớn mạnh không ngừng.
Nhiều người chỉ vì lợi nhuận đã tàn phá sức vóc cường tráng của rừng. Người dân đốt rừng để làm nương rẫy. Lâm tặc chặt phá rừng, săn bắt động vật quý hiếm… Hậu quả là thiên tai xảy ra triền miên: lũ lụt, sạt lở đất…
Bài viết số 5 lớp 7 đề 2 – Mẫu 2Rừng là món quà quý giá mà mẹ thiên nhiên ưu ái ban tặng cho con người. Nó mang đến cho chúng ta rất nhiều ý nghĩa giá trị lớn lao không gì có thể thay thế được. Sự tồn tại phát triển của rừng có mối quan hệ mật thiết với cuộc sống con người chính vì thế bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của mỗi chúng ta.
Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể động vật, thực vật, vi sinh vật, đất…cùng sinh sôi nảy nở trên những vùng đất cao rộng, đặc biệt là đồi núi. Trên dải đất hình chữ S thân thương, diện tích đồi núi chiếm tới 3/4 lãnh thổ cả nước cho nên ta luôn tự hào về một đất nước có tài nguyên rừng phong phú, dồi dào, giàu giá trị.
Rừng được xem là lá phổi xanh của con người giúp điều hòa không khí, thanh lọc môi trường bảo vệ cuộc sống và sức khỏe của chúng ta. Cây xanh trong rừng qua quá trình quang hợp sinh ra khí oxi và thu lại khí cacbonic phục vụ cho quá trình hô hấp của con người và động vật. Khí bụi, chất độc hại trong không khí được thẩm thấu và bị giữa lại ở màng lọc khổng lồ là những vòm cây xanh tạo ra bầu khí quyển trong lành, tươi mát cho con người. Những tác nhân gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe con người nhờ có rừng cây cũng được giảm thiểu rất nhiều. Rừng có vai trò như một bộ phận quan trọng không thể thiếu trên cơ thể con người, vì vậy bảo vệ rừng cũng là bảo vệ chính chúng ta.
Ngoài ra rừng phòng hộ có vai trò chặn lũ quét, xói mòn đất, làm dịu bớt sự gay gắt của thiên tai, những biến đổi bất thường của thời tiết. Thiên tai như một hung thần dữ tợn thường đến bất ngờ cướp đi tính mạng và tài sản của biết bao con người. Nhưng nhờ có rừng che chắn bảo vệ đã giúp ngăn chặn và giảm thiểu rất nhiều sự tàn khốc cũng những thiệt hại to lớn do bão lũ gây ra cho con người. Nếu không có rừng thì ta không thể lường trước được cái giá mà con người phải trả cho thiên nhiên đắt đỏ như thế nào. Nhận thức được tầm quan trọng ấy chúng ta cần phải biết trân trọng và bảo vệ rừng.
Không chỉ vậy rừng còn đem lại cho con người giá trị kinh tế to lớn. Hằng năm, rừng cung cấp cho con người một lượng gỗ lớn phục vụ cho đời sống và sản xuất. Không chỉ vậy nơi đây còn có rất nhiều sản vật quý hiếm như nhân sâm, tam thất… đem lại lợi ích kinh tế to lớn cho con người. Nhiều loài động vật quý, thực vật, vi sinh vật quý cũng đều trú ấn trong rừng cho nên đây cũng là nơi các nhà thám hiểm thường xuyên lui tới để khám phá, tìm tòi sự bí ẩn của thế giới thiên nhiên. Với ý nghĩa thực tiễn to lớn như thế, chúng ta càng thêm yêu quý và trân trọng những cánh rừng quê hương.
Đặc biệt, rừng còn có giá trị lớn lao về mặt quân sự. Thời kháng chiến rừng như một người chiến sĩ kiên trung, kề vai sát cánh cùng bộ đội ta đấu tranh với kẻ thù. Trước kia, rừng chính là nơi ẩn náu, trú ngụ của quân ta trước mỗi cuộc càn quét của kẻ thù, đồng thời đây cũng là nơi trận địa diễn ra bao cuộc chiến đấu gay gắt giữa ta và địch. Giờ đây, rừng cũng là ranh giới để ngăn cách nước ta với các nước láng giềng, là đường biên giới để phân định rõ ràng ranh giới của mỗi quốc gia, dân tộc. Vì thế bảo vệ rừng chính là bảo vệ phần lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.
Nhận thức sâu sắc ý nghĩa, vai trò to lớn của rừng mỗi chúng ta cần phải biết trân trọng và bảo vệ rừng. Mỗi người cần có ý thức tự giác trong việc giữ gìn và phát triển rừng. Thực hiện trồng cây gây rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc để màu xanh tỏa bóng cuộc sống của mỗi chúng ta.
Tuy nhiên thời gian gần đây, một số đối tượng xấu vì lợi ích kinh tế trước mắt mà đang tâm phá hoại rừng, chặt cây lấy gỗ trái phép để làm giàu bất chính. Người dân kém hiểu biết đốt rừng làm nương rẫy, tàn phá cây xanh. Diện tích rừng bị thu hẹp nghiêm trọng, hàng ngàn sinh vật không có nơi cư trú để lại hậu quả khôn lương ở phía sau. Những hành động ấy thật đáng lên án phê phán gay gắt. Cần phải có lời cảnh tỉnh đanh thép và biện pháp cứng rắn để cảnh tỉnh đối với những kẻ phá hoại rừng.
Bài viết số 5 lớp 7 đề 2 – Mẫu 3Rừng được coi là “lá phổi xanh của trái đất. Nó đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của con người. Bởi vậy mà, bảo vệ rừng chính là bảo vệ cuộc sống của chúng ta.
Khi khẳng định bảo vệ rừng là đang bảo vệ cuộc sống của con người có nghĩa là muốn khẳng định tầm quan trọng của rừng đối với cuộc sống của con người. Trước hết, rừng giống như một ngôi nhà chung của rất nhiều loại động thực vật, trong đó có những loài được xem là vô cùng quý hiếm. Nếu như ngôi nhà chung ấy không được bảo vệ cẩn thận, sẽ dẫn đến những hậu quả không nhỏ về mặt sinh thái. Nhờ có sự tồn tại của rừng xanh mà cân bằng sinh thái của trái đất mới được duy trì. Tiếp đến, rừng còn là lá phổi xanh của trái đất. Cách nói này cho thấy vai trò của rừng cũng giống như một lá phổi, có vai trò thanh lọc môi trường. Những tán lá cản và giữ bụi. Lá cây tiết ra nhiều loại chất kháng khuẩn có tác dụng tiêu diệt vi trùng gây bệnh trong không khí. Khi bảo vệ rừng cũng là góp phần chống lại thiên tai. Rừng giúp ngăn nước lũ, chống xói mòn, điều hòa khí hậu. Hầu như mọi hiện tượng bất thường của khí hậu đều có nguồn gốc từ việc con người không bảo vệ rừng. Ví dụ như ở Việt Nam, lũ lụt gây ra sạt lở đất ở các vùng miền núi đều do rừng đầu nguồn bị tàn phá.
Không chỉ vậy, rừng còn là nơi đem lại giá trị kinh tế, khoa học cao. Rừng là nơi sinh sống của nhiều loài động vật hoang dã, trong đó có nhiều loài quý hiếm. Trong rừng có nhiều loại cây khác nhau. Ðây là nguồn thực phẩm, nguồn nguyên liệu quý cho công nghiệp và dược phẩm, là nguồn gen hoang dại có giá trị trong lai tạo giống mới cho nông nghiệp và chăn nuôi. Rừng còn là một địa điểm du lịch sinh thái rất hấp dẫn đối với những người đam mê khám phá, trải nghiệm. Tuy nhiên, chính vì những giá trị này, mà nhiều người đã khai thác rừng một cách bừa bãi, gây ra những hậu quả to lớn.
Rừng bảo vệ và cải tạo đất. Nhờ có tán lá xoè rộng như chiếc ô, nước mưa không xối thẳng xuống mặt đất, nắng không đốt cháy mặt đất, nên lớp đất trên mặt khó bị rửa trôi theo nước mưa. Rừng nuôi đất, bồi bổ cho đất.
Ngoài ra, khi bảo vệ rừng cũng là bảo vệ nền an ninh quốc phòng của đất nước. Bởi rừng chính là ranh giới tự nhiên giữa các quốc gia. Trong quá khứ, rừng còn là những người bạn chiến đấu của người chiến sĩ Việt Nam. Rừng giúp họ ngụy trang trốn khỏi truy sát của kẻ thù. Rừng giúp vây bắt kẻ thù với hầm, chông bẫy giặc:
(Việt Bắc, Tố Hữu)
Ngày hôm nay, rừng đang dần bị tàn phá. Chính vì vậy, vấn đề bảo rừng lại trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Con người cần có những biện pháp để bảo vệ rừng, cũng chính là bảo vệ tương lai của nhân loại. Chúng ta cần lên án những hành vi săn bắt động vật quý hiếm trong rừng; chặt phá rừng bừa bãi. Mỗi người dân sinh sống gần khu vực rừng cần nêu cao ý thức, tích cực trồng rừng và nói không với đốt rừng làm nương rẫy. Mỗi học sinh cần tích cực tuyên truyền đề những người xung quanh hiểu được tầm quan trọng của việc bảo vệ rừng.
Như vậy, rừng quả thật đóng một vai trò vô cùng quan trọng với con người nói riêng, với trái đất nói chung. Hãy chung tay bảo vệ rừng để cuộc sống sẽ trở nên tốt đẹp hơn.
Bài viết số 5 lớp 7 đề 2 – Mẫu 4Rừng là một nguồn tài nguyên quý giá đối với nhân loại. Bởi vậy mà bảo vệ rừng chính là bảo vệ cuộc sống của con người.
Hiểu một cách đơn giản nhất thì rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật, động vật, vi sinh vật… cùng sinh trưởng và phát triển trên những vùng đất cao rộng, đặc biệt là đồi núi.
Rừng có một vai trò quan trọng. Mà trước hết, rừng là ngôi nhà chung của rất nhiều loại động và thực vật. Đặc biệt có rất nhiều loài quý hiếm đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Thử tưởng tượng khi một cánh rừng bị phá hủy, các loài động vật, thực vật không còn nơi sinh sống.
Đối với con người, rừng giúp điều hòa khí hậu, giảm ô nhiễm không khí. Bởi vậy mà rừng mới được coi là lá phổi xanh của trái đất. Cây cối trong rừng sẽ giúp ngăn chặn việc sạt lở đất khi xảy ra mưa lớn. Điều đó giúp tránh gây ra thiệt hại về người và của.
Rừng cung đem lại một nguồn giá trị to lớn về kinh tế: cung cấp gỗ, dược liệu hay thu hút khách đến du lịch như Cúc Phương, Phong Nha – Kẻ Bàng, U Minh… đóng góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Nhiều cánh rừng đã trở thành biên giới tự nhiên của Việt Nam với các quốc gia láng giềng. Bởi vậy, việc bảo vệ rừng chính là góp phần bảo vệ an ninh của các vùng biên giới. Trong các cuộc kháng chiến của dân tộc, rừng còn là nơi các chiến sĩ bộ đội ẩn nấp, cùng nhau đánh bại kẻ thù. Rừng gắn bó như một người đồng đội, cùng chia sẻ biết bao kỉ niệm: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai” – cánh rừng Trường Sơn rộng lớn là nơi ẩn nấp, chiến đấu và hy sinh của biết bao con người Việt Nam.
Hiện nay, hành vi chặt phá rừng để lấy gỗ hoặc làm nương đang diễn ra ngày càng nhiều. Điều đó khiến cho con người phải chịu nhiều hậu quả không ngờ từ thiên nhiên: lũ lụt, sạt lở đất… Đó chính là lời cảnh báo cho con người trước những việc làm của mình.
Chúng ta phải tích cực trồng cây gây rừng, vận động người dân vùng cao hạn chế đốt rừng làm nương. Nhà nước cần có những quy định xử phạt cho hành vi chặt phá rừng, săn bắt động vật trái phép. Đồng thời, các đơn vị kiểm lâm cũng cần phải thường xuyên kiểm tra, theo dõi. Có như vậy, rừng mới được bảo vệ.
……….
Bài viết số 5 lớp 7 đề 3 Bài viết số 5 lớp 7 đề 3 – Mẫu 1Dân gian ta có câu tục ngữ “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”. Tôi thấy câu tục ngữ này rất đúng với thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, trong lớp tôi lại có một vài ý kiến cho rằng: “Gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng” nên tôi thấy cần phải viết bài này để tranh luận cùng các bạn đó.
Đầu tiên về ý nghĩa của câu tục ngữ trên. Xét về nghĩa đen của câu tục ngữ nếu ta tiếp xúc với loại mực có màu đen dùng để viết chữ Hán ngày xưa, thì tay ta, quần áo của ta rất dễ bị dây vết mực đen; còn nếu ta gần một ngọn đèn đã được thắp sáng lên thì ta sẽ nhận được một phần ánh sáng của đèn. Xét về nghĩa bóng câu tục ngữ muốn khuyên răn con người rằng trong cuộc sống, nếu ta luôn gần gũi, tiếp xúc với người xấu, ta luôn sống trong một môi trường xấu thì ta cũng rất dễ bị lây nhiễm những cái xấu; ngược lại nếu ta luôn gần gũi, quan hệ với người tốt, ta luôn được sống trong một môi trường tốt đẹp, lành mạnh thì ta cũng dễ dàng học tập được những điều tốt đẹp.
Trong thực tế hiện nay, một số thanh niên giao du với những kẻ trộm cắp, một thời gian sau cũng quen thói đi ăn trộm. Một số cô gái ở quê ra thành phố thích giao lưu với những kẻ ăn chơi đàng điếm có vẻ như rất giàu sang, lắm tiền nhiều bạc thì cũng dễ sa ngã vào con đường tội lỗi…
Nhưng trong vài trường hợp đặc biệt thì có một vài trường hợp gần mực chưa chắc đã đen gần đèn chưa chắc đã rạng. Đối với trường hợp gần mực chưa chắc đã đen ta có thể nói đến Nguyễn Văn Trỗi, Trần Văn Ơn trong thời Mỹ đang chiếm đóng miền nam nước ta các anh là những bông sen thơm ngát tỏa hương trong bùn lầy hôi tanh như bài ca dao:
Điều đó đã chứng minh tính đúng đắn của ý kiến “Gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng”.
Tóm lại, câu tục ngữ này đúng là một lời răn dạy hết sức đúng đắn và hay. Chúng ta cần suy nghĩ về nó để tìm một môi trường tốt đẹp mà sống và quyết xa lánh môi trường xấu.
Bài viết số 5 lớp 7 đề 3 – Mẫu 2Kho tàng lịch sử dân tộc ta có rất nhiều ca dao, tục ngữ được đúc rút từ kinh nghiệm của nhân dân ta từ bao đời nay. Và trong quá trình tồn tại, con người nhận thấy được ảnh hưởng của môi trường tác động rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của chúng ta. Từ đó, ông cha ta đã gói gọn thông điệp đó trong câu tục ngữ “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Tuy nhiên có bạn lại cho rằng: “Gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng”.
Đầu tiên, cần hiểu được ý nghĩa của câu tục ngữ trên. “Mực” có màu đen, dễ bị vấy bẩn. Mực tượng trưng cho những cái xấu xa, tiêu cực, không tốt đẹp. Còn “đèn” là vật phát sáng tỏa sáng soi rọi mọi thứ, ở gần đèn ta được soi chiếu sáng trưng. Và “đèn” tượng trưng cho những điều tốt đẹp, trong lành, sáng sủa. Từ hai hình ảnh tương phản nhau “mực” và “đèn” thể hiện hai hàm ý đối ngược nhau nhằm nhắc nhở chúng ta về cái xấu, cái tốt.
Không phải chỉ đến ngày nay mà từ thời Mạnh Tử, mẹ của ông đã nhận thức được tác động to lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của con. Chúng ta biết đến Mạnh Tử là người giỏi giang, hiểu sâu biết rộng, đạo cao, đức trọng nhưng để có một ngày giỏi giang như ông thì đằng sau là một người mẹ hiền nuôi dạy ông nên người. Bà đã từng chuyển nhà tới ba lần để tìm cho Mạnh Tử một môi trường ưng ý. Hay Nguyễn Bỉnh Khiêm – một vị quan tài giỏi xin rút lui khỏi chốn quan trường về ở ẩn vì ông sợ rằng chốn quan trường mưu mô sẽ kéo ông theo nó, biến ông thành một kẻ mưu mô, tham lam. Qua đó, chúng ta nên chọn cho mình một môi trường làm việc, môi trường sống, con đường đi tốt đẹp, tích cực để gìn giữ và phát triển nhân cách bản thân hơn.
Ngày nay thì câu tục ngữ “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” vẫn được mọi người nhắc nhở nhau. Trong gia đình, nếu bố mẹ hòa thuận, yêu thương nhau, cùng nhau giáo dục con cái thì chắc chắn những người con sẽ phát triển tốt hơn, đạo đức, nhân cách hướng thiện. Bởi bố mẹ chính là tấm gương phản chiếu, là ngọn đèn soi đường cho con cái mình dõi theo, học tập. Chính những cư xử, giao tiếp, đối xử lẫn nhau của bố mẹ là kim chỉ nam cho mỗi đứa con của mình. Gia đình là một tế bào của xã hội, gia đình hạnh phúc thì xã hội mới bình yên. Ngược lại, nếu trong gia đình nếu bố mẹ bất hòa, hay cãi nhau, không quan tâm đến con cái thì đứa trẻ lớn lên trong môi trường ấy thường hư hỏng hơn. Ngoài xã hội, khi làm việc, tiếp xúc thường xuyên với môi trường không tốt đẹp thì chúng ta dễ bị nhiễm những thói hư tật xấu và dần đánh mất bản tính lương thiện, thật thà của mình. Lấy ví dụ cụ thể trong môi trường trường học, nếu xung quanh là những người bạn xấu thường trốn học, quậy phá, học lực yếu, ăn chơi, đàn đúm, nếu bản thân lập trường không vững thì dễ bị lôi kéo, dễ hùa theo.
Tuy nhiên, không phải ai ở môi trường tốt cũng sẽ là người tốt, sống ở môi trường xấu thì cũng sẽ là người xấu, vấn đề nằm ở bản lĩnh, lập trường của chính mỗi con người. Cũng giống như ý kiến “Gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng”. Có những người sai lầm, từng nghiện ngập, ra tù vào tội nhưng khi họ muốn hoàn lương thì chúng ta không được kỳ thị. Chúng ta phải dang rộng vòng tay để họ làm lại cuộc đời, ở bên chia sẻ, hòa đồng với họ chứ không phải xem họ là người xấu rồi tránh xa. Ở bên cạnh họ, ta còn biết được những sai lầm mà họ từng vấp phải để bản thân có thể tự rút ra cho mình, học được bài học từ người khác
Như vậy, bản thân câu tục ngữ “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” hay ý kiến “Gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng” là một lời khuyên, một triết lý sâu sắc giúp tôi có thêm cách nhìn đúng đắn về mối tương quan giữa môi trường và việc hình thành nhân cách của bản thân.
Bài viết số 5 lớp 7 đề 3 – Mẫu 3Tục ngữ được coi là “chiếc túi khôn” của nhân loại khi đã đúc kết được những kinh nghiệm quý báu từ đời trước. Và câu tục ngữ “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” đã đem lại những bài học quý giá. Nhưng lại có ý kiến cho rằng “Gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng”.
Đầu tiên, chúng ta cần phải hiểu ý nghĩa của câu tục ngữ “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”. Hình ảnh “mực” có màu đen, dễ bị vấy bẩn. “Mực” tượng trưng cho những cái xấu xa, tiêu cực, không tốt đẹp. Còn “đèn” là vật phát sáng tỏa sáng soi rọi mọi thứ, ở gần đèn ta được soi chiếu sáng trưng. Còn “đèn” tượng trưng cho những điều tốt đẹp, trong lành, sáng sủa. Từ hai hình ảnh tương phản nhau “mực” và “đèn” thể hiện hai hàm ý đối ngược nhau nhằm nhắc nhở chúng ta về cái xấu, cái xấu. Từ đó, ông cha ta muốn khuyên nhủ thế hệ sau phải biết học hỏi những điều tốt đẹp, đúng đắn và tránh xa những cái xấu xa, không lành mạnh.
Câu tục ngữ chính là bài học mà kinh nghiệm được đúc kết từ cuộc sống. Môi trường có vai trò với việc hình thành nhân cách của con người. Trong một gia đình, cha mẹ chính là tấm gương để con cái nói theo. Ở trường học, thì thầy cô lại chính là người có ảnh hưởng đến học sinh. Có ai đó đã từng nói rằng: “Hãy cho tôi biết bạn của anh là ai, tôi sẽ chỉ cho anh biết, anh là người như thế nào”. Bạn bè cũng có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời của mỗi người. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, nhân dân ta có nhiều câu ca dao mang nội dung giáo dục về vấn đề này:
Tuy nhiên, không phải ai cũng chịu ảnh hưởng của môi trường. Cũng giống như ý kiến “Gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng”. Có những người vẫn giữ gìn được nhân cách tốt đẹp, giống như đóa hoa sen vậy:
Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là một tấm gương sáng của dân tộc. Dù sống trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ nhưng người vẫn giữ được tinh thần yêu nước, ý thức cách mạng và nhân cách cao đẹp. Hoặc chúng ta có thể kể đến cái tên Nguyễn Văn Trỗi – người thợ điện ở thành phố Sài Gòn hoa lệ, vẫn không chút mảy may xao động bởi cuộc sống hào nhoáng, những thủ đoạn lọc lừa xảo trá. Anh chọn cho mình con đường Cách mạng, chấp nhận chiến đấu và hy sinh cho lý tưởng mà mình theo đuổi… Tấm gương của anh và biết bao gương sáng khác đã trở thành bài học cho bao thế hệ cháu con học tập.
Như vậy cả câu tục ngữ và ý kiến trên đều có những mặt đúng đắn. Mỗi người cần hiểu được điều đó để có cách nhìn nhận đúng đắn về mối quan hệ giữa môi trường xã hội với việc hình thành nhân cách của bản thân. Bản thân em cũng sẽ cố gắng hiểu được điều đó để có tinh thần cảnh giác trong việc giao du tiếp xúc với bạn bè, đồng thời xác định cho mình một thế đứng vững vàng trước những tác động tiêu cực của môi trường xung quanh để luôn luôn “gần mực” mà vẫn không “ đen” và “ gần đèn” để luôn tỏa sáng.
Tóm lại, câu tục ngữ “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” hay ý kiến “Gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng” đều vô cùng ý nghĩa. Qua đó, mỗi người cần rút ra được những bài học cho chính bản thân mình.
Bài viết số 5 lớp 7 đề 3 – Mẫu 4Ông cha ta có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng” cho thấy sự ảnh hưởng của môi trường đến cuộc sống của con người. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng “Gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng”. Câu tục ngữ và ý kiến trên đã gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ.
Trước hết, về câu tục ngữ “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng” đã mượn hình ảnh rất quen thuộc là mực và đèn. “Mực” có màu đen, được bơm vào bút để viết, còn “đèn” là một đồ vật dùng để cung cấp ánh sáng. “Mực” tượng trưng cho những cái xấu xa và tiêu cực, còn “đèn” tượng trưng cho những điều tốt đẹp và sáng sủa. Câu tục ngữ nói đến sự ảnh hưởng của môi trường với con người. Từ đó, ông cha ta muốn khuyên nhủ chúng ta cần phải học hỏi những điều tốt đẹp, đúng đắn và tránh xa những cái xấu xa, không lành mạnh.
Câu tục ngữ trên là hoàn toàn đúng đắn. Chắc hẳn chúng ta không ai không biết đến cái tên Đỗ Nhật Nam. Cậu bé được mệnh danh là thần đồng khi còn rất nhỏ tuổi. Không thể phủ nhận được rằng, điều đó xuất phát từ việc Đỗ Nhật Nam được sống trong một môi trường tốt khi cả bố mẹ đều là giảng viên đại học, họ đã có cách dạy dỗ và định hướng đúng đắn để cậu trở thành một con người tài năng, giỏi giang. Ngược lại, nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao – vốn là một người nông dân hiền lành. Nhưng do chịu hoàn cảnh của xã hội mà đại diện là bá Kiến – kẻ đã tiếp tay cho nhà tù thực dân đẩy Chí vào con đường lưu manh, tha hóa – để rồi hắn dần trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Còn với ý kiến “Gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng” lại mang tính phản đề cho câu tục ngữ trên. Không phải ai cũng chịu ảnh hưởng của môi trường. Có những người vẫn giữ được phẩm chất tốt đẹp, lương thiện dù phải sống ở nơi xấu xa, đê hèn. Nhà tình báo Vũ Ngọc Nhạ suốt mấy chục năm sống ngay trong hang ổ quân thù là bè lũ bán nước Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu và chính phủ ngụy quyền Sài Gòn – tay sai của đế quốc Mĩ xâm lược. Nhưng ông vẫn giữ nguyên vẹn là một chiến sĩ cộng sản kiên cường, mưu trí, dũng cảm để góp phần tích cực vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hay như hình ảnh viên quản ngục trong truyện “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân. Dù ở trong môi trường ngục tù, chỉ toàn những lừa lọc, mưu mô. Nhưng ông vẫn giữ được phẩm chất thanh cao – là “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Bên cạnh đó cũng có những người sống trong môi trường trong sạch, tốt đẹp nhưng lại bị những tham vọng biến họ trở thành những con người thủ đoạn, dần trở nên xấu xa.
Như vậy, câu tục ngữ và ý kiến trên đều đúng đắn. Môi trường có hoặc không ảnh hưởng đến con người. Nhưng quan trọng nhất vẫn là cách sống của chúng ta.
……….
Bài viết số 5 lớp 7 đề 4 Bài viết số 5 lớp 7 đề 4 – Mẫu 1Trong đời sống xã hội nhiều năm trở lại đây, vấn đề môi trường sống được nhắc đến như là “điểm nóng” của tình hình thế giới. Các hội thảo khoa học, các hội nghị quốc tế, những cuộc thi, những cuộc vận động… xoay quanh vấn đề môi trường sống đang từng ngày từng giờ được diễn ra, tất cả đều phát đi bức thông điệp khẩn thiết: “Hãy cứu lấy môi trường!”
Trước hết phải hiểu rằng môi trường sống bao gồm những điều kiện tự nhiên bao quanh con người. Môi trường sống lại được chia nhỏ thành các loại: đất, nước, cây cối, không khí, bầu trời… Môi trường sống có vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống con người, sự xâm hại đến môi trường sống gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự sống.
Nếu chúng ta không bảo vệ môi trường thì hậu quả đầu tiên con người phải gánh chịu đó là số người mắc những căn bệnh nan y sẽ ngày một tăng. Bởi khi khói của các nhà máy công nghiệp với đủ các độc tố tạo thành lớp mây mù bay trên bầu trời. Con người sẽ hít phải khí độc đó và hơn nữa những chất thải đó sẽ làm hư hại đến tầng ôzôn nên về lâu dài nếu cứ để tình trạng ô nhiễm khí công nghiệp xảy ra con người sẽ không có không khí để thở và cả thế giới sẽ chết ngạt. Và bệnh tật sẽ còn phát sinh hơn nữa nếu con người phải sống lâu ngay ở môi trường ô nhiễm đặc biệt là nguồn nước. Nguồn nước vô cùng quan trọng với con người: nước dùng để sinh hoạt như ăn uống, tắm giặt và dùng trong trồng trọt, cây rau của chúng ta cũng sẽ trở nên độc hại nếu được tưới tiêu bằng nguồn nước bẩn. Và còn rất nhiều thứ khác sẽ trở thành độc hại khi sử dụng chúng bằng nguồn nước bẩn.
Một vấn đề nữa, nếu chặt phá rừng bừa bãi cũng sẽ gây ra những hậu quả khủng khiếp, đó là nạn lũ lụt hoành hành từng năm. Rừng là lá phổi của trái đất, điều đó có nghĩa là rừng cung cấp cho con người khí ô-xi nhờ quá trình quang hợp của cây. Con người chỉ có thể có được không khí trong lành khi được sống giữa màu xanh của cây cối, với thiên nhiên. Đặc biệt, rừng còn là bức tường kiên cố ngăn chặn sự xâm hại của dòng nước đổ từ trên miền núi xuống miền xuôi cho nên nếu những bức tường đó bị phá bỏ thì nước lũ sẽ mặc sức đổ xuống đồng bằng, khiến cho ngập lụt xảy ra thường xuyên và thật khủng khiếp. Thiệt hại về người và của không thể tính xuể. Mặc dù biết tác hại do việc chặt phá rừng là như vậy song nhiều người vẫn ngang nhiên chặt gỗ phá rừng, khiến cho diện tích rừng trên thế giới mỗi năm một giảm.
Môi trường sống quanh ta chính là người bạn thân thiết nhất. Và đời sống của chúng ta sẽ bị tổn hại rất lớn nếu mỗi người không có ý thức bảo vệ môi trường sống. Bởi vậy, chúng ta hãy chung tay cùng nhau bảo vệ môi trường sống của mình.
Bài viết số 5 lớp 7 đề 4 – Mẫu 2Xã hội càng phát triển thì loài người chúng ta lại càng làm nhiều hơn những việc không tốt đối với môi trường. Giờ đây, nguy cơ môi trường bị huỷ hoại đã Không chỉ còn là vấn đề của mỗi quốc gia. Nó đòi hỏi tất cả chúng ta phải ý thức rõ ràng và phải hành động quyết liệt để bảo vệ môi trường sống.
Trong những năm qua, để giải quyết những vấn đề trước mắt, con người đã không ngần ngại xâm hại đến môi trường. Thực tế đã chứng minh, những nước có nền công nghiệp phát triển là những người mà người ta làm hại nhiều nhất đến bầu khí quyển. Lượng khói bụi mà hàng ngày các ống khói nhà máy và xe cộ thải ra làm cho tầng ôzôn (tấm lá chắn) của chúng ta bị thủng. Cũng từ đó mà nhiệt độ của trái đất hàng năm cứ nhích dần lên làm cho băng ở Bắc Cực và Nam Cực tan ra. Và như thế có nghĩa là loài người sẽ đứng trước nguy cơ bị dìm trong biển nước. Hành vi chặt phá rừng bừa bãi khiến tài nguyên rừng của chúng ta bị cạn kiệt, môi trường sống của chúng ta không được trong lành mà còn gây ra mất cân bằng sinh thái. Diện tích rừng đầu nguyên bị hủy hoại cũng chính là nguyên nhân sâu xa khiến chúng ta phải đối diện với nhiều trận lũ lụt đã cướp đi sinh mạng của nhiều người.
Thậm chí, việc sử dụng bao bì ni-lông cũng sẽ gây hại cho môi trường sống của con người. Các bao bì và túi làm từ ni-lông không phân hủy. Nó có thể tồn tại hàng trăm năm trong đất và làm triệt hại mầm sống của các cây con. Chúng làm ô nhiễm những dòng sông, làm chết các loài cá và thậm chí còn làm ngộ độc gây chết người nếu chúng ta ngửi phải quá nhiều hơi đốt từ các phế phẩm ni lông.
Những hành vi gây hại đến môi trường bắt nguồn từ thói quen và sự thiếu hiểu biết của chúng ta. Vì thế mà, thiết nghĩ, để có ý thức bảo vệ môi trường, chúng ta phải tự trang bị cho mình những hiểu biết về tác hại từ những hành động của chúng ta. Chúng ta chắc chắn sẽ có ý thức hơn, có trách nhiệm hơn nếu chúng ta biết rằng những hành động gây hại đến môi trường cũng có nghĩa là đang triệt tiêu cuộc sống.
Bài viết số 5 lớp 7 đề 4 – Mẫu 3Môi trường và cuộc sống của con người có sự gắn bó mật thiết. Nếu như chúng ta không có ý thức bảo vệ môi trường thì đời sống của con người sẽ bị tổn hại rất lớn.
Đầu tiên môi trường là tất cả những điều kiện vật chất bao quanh sự sống của con người bao gồm đất, nước, không khí… Đó là nơi để con người có thể sinh sống và phát triển. Nó đóng một vai trò quan trọng với đời sống con người. Môi trường cung cấp những điều kiện vật chất cho cuộc sống con người như không khí để thở, nước để uống, cây xanh cung cấp oxy. Ngoài ra nó còn giúp bảo vệ sức khỏe con người. Môi trường trong lành ngăn cản sự phát triển của các vi sinh vật có hại (không khí sạch ngăn cản vi khuẩn, virus, nước sạch ngăn cản của bọ gậy, muỗi…).
Nhưng có một thực trạng đáng báo động là hiện nay, con người dường như đã quên đi trách nhiệm phải bảo vệ môi trường sống của mình. Nhiều người đã xả rác bừa bãi làm ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí. Các loại rác thải công nghiệp làm ô nhiễm không khí, thủng tầng ôzon, xói mòn đất… Những hành vi trên đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến trái đất. Bầu không khí bị ô nhiễm nghiêm trọng khiến cho tầng ôzon (vốn là “lớp màng tự nhiên” có tác dụng ngăn cản ánh sáng bức xạ không tốt từ mặt trời đã bị thủng. Trái đất cũng ngày một nóng lên khiên cho băng tan chảy gây ra ngập lụt, bão, và sóng thần. Khi không khí bị ô nhiễm sẽ ra mưa a-xít làm hư hại mùa màng, phá hủy nhiều rừng cây và đời sống của các sinh vật cũng bị đe dọa. Những hình thức thời tiết cực đoan như: mưa đá, sương muối, băng tuyết diễn ra ngày càng nhiều. Các dịch bệnh nguy hiểm xuất hiện gây ra ảnh hưởng to lớn đến sức khỏe của con người…
Môi trường sống trong nhiều năm trở lại đây bị ô nhiễm và tổn hại nghiêm trọng vì vậy đòi hỏi con người phải có những biện pháp cấp thiết bảo vệ môi trường sống. Đối với một học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, việc ý thức được phải bảo vệ môi trường sống là vô cùng cần thiết. Mỗi học sinh hãy bắt đầu từ những hành động đơn giản như: không xả rác bừa bãi, bảo vệ rừng, trồng nhiều cây xanh, hạn chế sử dụng bao bì ni-lông…
Bảo vệ môi trường chính là bảo vệ cuộc sống của con người. Tất cả hãy chung tay vì một trái đất ngày một tốt đẹp hơn.
Bài viết số 5 lớp 7 đề 4 – Mẫu 4Trên thực tế, môi trường đang bị ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng. Từ không khí, đất đai đến nước uống. Điều đó không chỉ gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng đến trái đất, mà còn cả cuộc sống của nhân loại. Không khí bị ô nhiễm gây thủng tầng ôzon (vốn là “lớp màng tự nhiên” có tác dụng ngăn cản ánh sáng bức xạ không tốt từ mặt trời đến trái đất); đồng thời làm gia tăng các bệnh về hô hấp ở con người. Đất đai bị ô nhiễm sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, trồng trọt hay chăn nuôi gây ra những thiệt hại về kinh tế. Tiếp đến là nguồn nước, nhiều người cho rằng trên trái đất, chẳng có gì nhiều như nước nhưng thực tế nguồn nước ngọt phục vụ cho cuộc sống của con người trên trái đất đang ngày càng khan hiếm. Theo Tổ chức Y tế thế giới, có khoảng hơn hai tỷ người đang sống trong cảnh thiếu nước ngọt. Sự biến đổi khí hậu khiến cho các hình thức thời tiết cực đoan xảy ra nhiều hơn. Hiện tượng mưa a-xít làm hư hại mùa màng, phá hủy nhiều rừng cây và đời sống của các sinh vật cũng bị đe dọa. Kế đến là mưa đá, sương muối, băng tuyết, lũ lụt thường xuyên xảy ra trên khắp thế giới. Các dịch bệnh nguy hiểm xuất hiện gây ra ảnh hưởng to lớn đến sức khỏe của con người như dịch hạch, dịch tả, covid-19… Ảnh hưởng của môi trường đến cuộc sống của con người là vô cùng to lớn.
Advertisement
Và hậu quả của ô nhiễm môi trường đem lại là không hề nhỏ. Chính vì vậy, mỗi người cần phải có ý thức bảo vệ môi trường hơn. Một hành động nhỏ bé nhưng có thể đem đến rất nhiều tác động tích cực. Chúng ta cần vứt rác đúng nơi quy định, hạn chế sử dụng rác thải nhựa hay tích cực trồng cây xanh, bảo vệ động thực vật quý hiếm… Đồng thời, mỗi người hãy tích cực tham gia các chiến dịch mang tính toàn cầu như “Giờ Trái Đất”, “Làm cho thế giới sạch hơn”, “Kết nối vì khí hậu”…
……….
Bài viết số 5 lớp 7 đề 5 Bài viết số 5 lớp 7 đề 5 – Mẫu 1Bác Hồ được biết đến là một biểu tượng của phong cách sống giản dị mà thanh bạch. Từ những năm chiến tranh gian khổ đến khi trở thành vị chủ tịch của đất nước, Bác vẫn giữ được lối sống ấy.
Lối sống giản dị của Bác Hồ được thể hiện qua nhiều mặt. Đầu tiên là nơi ở của Bác chỉ là một chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh cái ao. Chỉ vẻn vẹn có vài phòng để “tiếp khách, họp Bộ Chính trị, làm việc và ngủ nghỉ”, đồ đạc trong đó cũng “rất mộc mạc, đơn sơ”. Dinh thự của một vị chủ tịch thì ra cũng giản dị nhưng biết bao người dân Việt Nam.
Trang phục của vị Người cũng hết sức giản dị. Bác chỉ có bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp thô sơ. Tuy được tặng nhiều quần áo mới nhưng Bác đem tặng lại những chiến sĩ, đồng bào thiếu thốn. Chuyện kể rằng ông Nguyễn Thế Văn quê ở Thái Bình là người thân cận duy nhất lo cho Bác từ giấc ngủ đến bữa ăn kể lại: “Mỗi bữa ăn của Bác chỉ có một niêu cơm nhỏ, một đĩa tai hoặc mũi lợn luộc, một chút mắm chua. Khi ăn, bao giờ Bác cũng gặp tai, mũi lợn ra một chiếc đĩa nhỏ rồi lấy chén đậy lại. Va li quần áo của Bác chỉ có 2 chiếc quần đùi, hai chiếc áo may ô và một bộ trang phục để tiếp khách thế nhưng Bác luôn dặn tôi phải hết sức cẩn thận cất giữ chiếc va li như báu vật, nếu đi đâu ra khỏi phòng phải cho vào tủ khóa lại…”. Rồi câu chuyện của bà Nguyễn Thị Liên, nguyên cán bộ Văn phòng Phủ Chủ tịch kể lại khi làm việc ở văn phòng chủ tịch, có đôi khi bà còn đảm nhận công việc khâu vá quần áo, chăn màn cho bác. Theo lời bà kể: “Áo Bác rách, có khi vá đi vá lại, Bác mới cho thay. Chiếc áo gối màu xanh hoà bình của Bác, được ông Cần (người phục vụ Bác) đưa bà vá đi vá lại. Cầm chiếc áo gối của Bác, bà rưng rưng nước mắt, bà nói với ông Cần thay áo gối khác cho Bác dùng nhưng Bác chưa đồng ý. Người vẫn dùng chiếc áo gối vá…”.
Đối với việc ăn uống cũng của Bác thật đạm bạc, món ăn toàn là: cá kho, rau luộc, dưa ghém, cà muối, cháo hoa… Vào những dịp lễ tết, có món gì ngon lạ, ngon Bác đều mời anh chị phục vụ ăn cùng. Những thức ăn còn lại Bác sắp xếp tươm tất, Bác không muốn để người khác ăn phần thừa của mình.
Ngay cả trong công việc hay trong quan hệ với mọi người, Bác cũng sống vô cùng giản dị. Xung quanh đều có rất ít người giúp việc. Những công việc có thể tự làm, Bác không để ai phải giúp đỡ. Đối với nhân dân, Bác luôn quan tâm và yêu quý như người thân trong gia đình. Có thể kể đến những việc đi thăm nhà tập thể công nhân, viết thư cho một đồng chí hay nói chuyện với các cháu miền Nam hoặc đi thăm và tặng quà cho các cụ già mỗi khi Tết đến…
Phong cách sống giản dị mà thanh cao của Bác khiến mỗi người dân Việt Nam không khỏi ngưỡng mộ và tự hào. Mỗi chúng ta hãy cố gắng học tấm và làm theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bài viết số 5 lớp 7 đề 5 – Mẫu 2Khi nhắc đến Hồ Chí Minh, mỗi người dân Việt Nam sẽ cảm thấy vô cùng tự hào. Người là vị lãnh tụ vĩ đại cũng là người cha già muôn vàn kính yêu của cả dân tộc Việt Nam. Bác chính là tấm gương sáng mà con người Việt Nam đời đời noi theo – một con người sống trọn đời giản dị và thanh bạch.
Lối sống giản dị và hòa hợp với thiên nhiên, cả đời chỉ lo nghĩ làm sao cho dân được ấm no, hạnh phúc. Bác gần gũi, thương yêu nhân dân như yêu thương những người thân ruột thịt. Bác tặng kẹo cho trẻ thơ, tặng lụa cho cụ già “sữa để em thơ, lụa tặng già… Sống hy sinh cho nước, cho dân, thời gian rảnh cũng chỉ để hồn mình hòa hợp với thiên nhiên, cây cỏ. Việc gì có thể tự làm sẽ không sai khiến hay nhờ vả cấp dưới, thanh bạch đoan chính vô cùng.
Cách sống đó còn được thể hiện qua lời ăn, tiếng nói, qua tâm hồn và tình yêu thương. Bác luôn suy nghĩ cho người khác, lo cho chiến sĩ, cho dân công, lo cho cả chuyện hạnh phúc của một nữ đồng chí. Năm 1945, Bác tiên phong nhịn ăn để góp “hũ gạo cứu đói” cứu sống bao người. Bác dành tình thương và sự quan tâm đặc biệt cho thiếu niên, cho thế hệ trẻ Việt Nam. Bác khuyên mọi người phải biết đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau. Bác công bằng trong mọi việc, ngoài việc phê bình, Bác nhắc nhở chúng ta còn phải tự phê bình để bản thân ngày càng tốt đẹp.
Những câu chuyện về lối sống giản dị, thanh bạch của Bác không được ghi lại cụ thể trên bất kỳ trang sách nào nhưng luôn rõ ràng trong tiềm thức nhân dân ta. Bác không câu nệ về đề tài, những gì có trong cuộc đời Bác đều đưa vào thơ. Bác viết văn, làm thơ một cách giản dị, làm chủ nghệ thuật như đã làm chủ thời gian, sinh hoạt, tiện nghi, tình thế, lịch sử… Cuộc đời Bác là tấm gương sáng mà thế hệ người Việt đời đời kính trọng và noi theo.
Ngày hôm nay, Bác Hồ đã đi xa mãi mãi. Nhưng mỗi người dân Việt Nam vẫn sẽ nhớ đến Bác với niềm yêu mến, tự hào về một nhân cách vô cùng cao đẹp:
Bài viết số 5 lớp 7 đề 5 – Mẫu 3Bác Hồ – hai tiếng gọi đầy thân thương mà sâu nặng. Người chính là vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam. Với nhân dân, Bác chính là biểu tượng của một lối sống giản dị mà hết sức thanh cao.
Đầu tiên, lối sống giản dị của Bác trước hết đến từ sự kết tinh giữa văn hóa của nhân loại và truyền thống dân tộc. Cuộc đời của Người đã trải qua nhiều lắm những gian truân:
(Theo chân Bác, Tố Hữu)
Trong suốt ba mươi năm bôn ba tìm đường cứu nước, chàng thanh niên tràn đầy nhiệt huyết cách mạng ấy đã đi qua nhiều nước trên thế giới và tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau. Đối với mỗi nền văn hóa Người lại có những vốn hiểu biết nhất định trên nhiều lĩnh vực. Đến đâu, Bác Hồ cũng không ngừng học hỏi. Điều đó thể hiện qua vốn ngoại ngữ của Hồ Chủ tịch. Người thành thạo nhiều thứ tiếng không chỉ nói mà còn viết: Pháp, Anh, Hoa, Nga… Hồ Chí Minh “đã tiếp thu” toàn bộ cái hay cái đẹp của các nền văn hóa nhưng tiếp thu có chọn lọc. Đồng thời, Người cũng đã “nhào nặn” để cái gốc văn hóa dân tộc đã thấm sâu vào tâm hồn mình, máu thịt mình. Bác đã trở thành “một nhân cách rất Việt Nam, một lối sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất phương Đông, nhưng cũng đồng thời rất mới, rất hiện đại”.
Cách Bác đã sống một cuộc sống không giống với bất kì một vị chủ tịch hay tổng thống nào. Nơi ở của Bác – mà nhà văn gọi là “cung điện” của một vị Chủ tịch nước chỉ là một chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh cái ao. Chỉ vẻn vẹn có vài phòng để “tiếp khách, họp Bộ Chính trị, làm việc và ngủ nghỉ”, đồ đạc trong đó cũng “rất mộc mạc, đơn sơ”. Từ nơi ở đến trang phục cũng “hết sức giản dị” – Bác chỉ có bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp thô sơ. Cuối cùng là việc ăn uống của Bác cũng thật đam bạc, món ăn toàn là : cá kho, rau luộc, dưa ghém, cà muối, cháo hoa… những món ăn dân dã của vùng quê Việt Nam. Cách sống của Người khiến cho mỗi người dân Việt Nam không khỏi ngưỡng mộ và kính trọng. Đồng thời, chúng ta còn thêm yêu mến, thêm tự hào.
Không chỉ trong cuộc sống hằng ngày, ngay cả trong công việc hay trong quan hệ với mọi người, Bác cũng sống vô cùng giản dị. Xung quanh đều có rất ít người giúp việc. Những công việc có thể tự làm, Bác không để ai phải giúp đỡ. Đối với nhân dân, Bác luôn quan tâm và yêu quý như người thân trong gia đình. Có thể kể đến những việc đi thăm nhà tập thể công nhân, viết thư cho một đồng chí hay nói chuyện với các cháu miền Nam hoặc đi thăm và tặng quà cho các cụ già mỗi khi Tết đến…
Cách sống của Bác Hồ là một sự chủ động lựa chọn lối sống ấy như là một cách để “tu dưỡng tâm hồn”. Một cách sống thanh cao và có thể đem lại cho Người một tinh thần thoải mái, vui vẻ.
Chính lối sống giản dị mà thanh cao đã khiến nhiều người cảm thấy khâm phục. Bác chính là biểu tượng sáng ngời cho dân tộc Việt Nam. Mỗi người dân Việt Nam hãy học tập và làm theo tấm gương đạo đức sáng ngời của Bác Hồ.
Bài viết số 5 lớp 7 đề 5 – Mẫu 4Bác Hồ là một tấm gương tiêu biểu về lối sống giản dị, thanh bạch. Điều đó được thể hiện cụ thể trong cách sống, cách làm việc và đối xử với môi người của Bác.
Đầu tiên là trong cuộc sống hằng ngày. Từ nơi ở, trang phục đến bữa ăn của Bác đều rất đơn giản. Bữa ăn của Bác chỉ có vài món đơn giản như cá kho, rau luộc, dưa ghém, cà muối, cháo hoa. Hiếm có bữa ăn của một nguyên thủ quốc gia nào lại đơn giản như vậy. Khi ăn cơm Bác không để rơi một hạt cơm nào. Lúc ăn xong lúc nào bát cũng sạch và thức ăn thừa còn được sắp xếp tươm tất. Nơi ở của Bác chỉ là một chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh cái ao. Cái nhà sàn nhỏ đó của Người “luôn luôn lộng gió và ánh sáng”. Thế mới thấy một tâm hồn yêu thiên nhiên sâu sắc. Cái “dinh thự” của một vị chủ tịch nước không khác là bao so với những ngôi nhà của nhân dân. Trang phục Bác mặc cũng không ngoại lệ – bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp thô sơ…
Trong công việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chủ động. Bác suốt đời làm việc, suốt ngày làm việc, từ những việc lớn như cứu nước đến việc nhỏ như trồng cây trong vườn. Xung quanh Bác cũng rất ít người giúp việc. Việc gì có thể tự làm, Bác đều tự làm. Còn quan hệ với mọi người, Bác luôn quan tâm và yêu quý như người thân trong gia đình. Có thể kể đến những việc đi thăm nhà tập thể công nhân, viết thư cho một đồng chí hay nói chuyện với các cháu miền Nam hoặc đi thăm và tặng quà cho các cụ già mỗi khi Tết đến…
Giản dị trong đời sống, nên Hồ Chí Minh cũng giản dị trong lời nói và bài viết. Cách nói, cách viết của người đều dễ hiểu với mục đích cho quần chúng hiểu được, nhớ được và làm được. Những chân lí: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một…”, “Không có gì quý hơn độc lập tự do”… đều đã đi vào đời sống của người dân.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nhận xét: “Nhưng chớ hiểu lầm rằng Bác sống khắc khổ theo lối nhà tu hành, thanh tao theo kiểu nhà hiền triết ẩn dật”. Quả là như vậy, cách sống giản dị của Hồ Chủ tịch không phải là lối sống khắc khổ. Cách sống đó là một sự chủ động lựa chọn lối sống ấy như là một cách để “tu dưỡng tâm hồn”.
Như vậy, lối sống giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh thật thanh cao, đẹp đẽ. Đó là cách sống đáng để thế hệ hôm nay học tập, noi theo.
……….
10 Bài Văn Tả Con Lợn Mà Em Biết Hay Nhất
Bài văn tả con lợn số 10
Nhà bác em có một trang trại lớn nuôi rất nhiều loài vật như: gà, vịt, chó, mèo…. trong đó, bác em nuôi nhiều nhất đó là con lợn. Những chú lợn béo tròn, hồng hào nhưng cũng rất ham ăn, ham ngủ.
Trong trang trại của bác em có nuôi năm mươi con lợn. Ở mỗi chuồng có từ sáu đến tám con, con nào cũng hồng hào, béo tốt. Những chú lợn có màu trắng hoặc màu hồng nhẹ, trên đầu có hai chiếc tai rất lớn, miệng của chú lợn rất dài, và cũng rất rộng nữa. Lợn không có nhiều lông như gà hay vịt mà nó chỉ lưa thưa những sợi lông màu trắng, mà nếu không để kĩ sẽ không thể nhìn thấy.
Những chú lợn ăn rất nhiều, thức ăn của chúng chủ yếu là cám được chế biến từ cám gạo và nấu thêm với bèo tây. Ngày nào bác em cũng phải ra sông lấy rất nhiều bèo về, sau đó băm nhỏ trộn với cám để làm thức ăn cho những chú lợn. Hoặc bèo sống có thể trực tiếp cho lợn ăn cho mát ruột.
Sáu chú lợn trong một chuồng có thể ăn hết một nồi đầy những cám, khi được bác em cho ăn, những chú lợn sẽ tự động chạy ra tận máng để đợi ăn. Những chú lợn sẽ tranh nhau ăn,chú nào cũng ăn rất nhanh, rất nhiều, khi ăn còn phát ra tiếng sột soạt rất lớn. Trông những chú lợn ăn rất ngon miệng. Vì ăn nhiều nên những chú lợn cũng lớn rất nhanh, chỉ một thời gian ngắn không gặp thì những chú lợn sẽ to lớn hơn rất nhiều. Nếu được chăm sóc tốt thì thời gian xuất chuồng cũng nhanh hơn.
Không chỉ ăn nhiều mà những chú lợn cũng ngủ rất nhiều, ngoài thời gian ăn thì những chú lợn chỉ nằm ngủ hoặc đi lại chậm rãi trong chuồng. Nhìn dáng vẻ lười biếng của chú lợn em nghĩ chúng cũng không thích vận động nhiều. Hoạt động chính của lợn chỉ xoay quanh ăn và ngủ, không biết trông nhà như những chú chó, cũng không tự kiếm ăn được như những chú gà.
Bài văn tả con lợn số 9Bài văn tả con lợn số 10
Để cải thiện đời sống, nhà em có nuôi một chú lợn thuộc giống lợn lai. Em rất thích sự ngộ nghĩnh của chú.
Đôi mắt lợn thì lúc nào cũng ti hí… Thân lợn thon và dài. Em thường cho nó ăn no nên bụng chú lợn lúc nào cũng căng tròn. Cuối thân lợn có một cái đuôi be bé. Chót đuôi có một chùm lông trông như cây chổi cùn bé tí. Cái đuôi ấy luôn luôn phe phẩy để đuổi ruồi muỗi. Con lợn nhà em phàm ăn lắm. Mỗi lần mẹ em cho lợn ăn, nó uống cạn hết nước rồi mới ăn phần cái. Khi ăn, chiếc đuôi cứ ngoe nguẩy ra chiều mừng rỡ.
Để cho lợn chóng lớn, mẹ em cho lợn ăn cám trộn với rau, với chuối, đôi khi còn thêm cả cá khô. Bố em thường tắm cho lợn trước khi cho nó ăn. Bốn chân lợn cao và chắc khỏe, nần nẫn những thịt. Con lợn nhà em dễ thương lắm. Mỗi lần em vuốt ve trên mình là nó nằm xuống ngay. Từ ngày nuôi lợn, gia đình em bận rộn thêm nhưng rất vui.
Em thường giúp ba má chăm sóc lợn như cho lợn ăn, phụ dọn vệ sinh chuồng trại. Ba má em thường bảo: “Con lợn này mau lớn, chắc sẽ giúp gia đình ta giải quyết đỡ khó khăn về kinh tế . Em tin là như vậy.
Bài văn tả con lợn số 9
Bài văn tả con lợn số 8Bài văn tả con lợn số 9
Vốn sinh ra trong một vùng nông thôn nên em không mấy lạ lẫm gì với những vật nuôi ở nông thôn. Được chăm sóc được tự tay chăm bẵm những con vật đó cảm giác của em thật là hạnh phúc và cảm thấy mình đã thật sự lớn. Lợn là vật nuôi mà nhà em nuôi nhiều nhất, mà nó cũng là con vật mà em cảm thấy đáng yêu nhất.
Lợn là con vật mà từ khi bé tới lớn nhắc tới ngẫu nhiên người ta áp đặt cho nó vẻ đáng yêu. Bất kể những ai hơi mập một chút cũng được gọi một cách đáng yêu là Heo. Nhà em nuôi cả lợn đẻ và lợn thịt. Mẹ em hay gọi lợn đẻ là lợn nái. Từ khi nhìn từ bề ngoài người ta cũng thấy sự khác biệt giữa chúng đặc biệt là màu da và dáng vẻ của chúng.
Chú lợn nái có đôi tai to, to bằng hai bàn tay người lớn, nó cứ úp vào khuôn mặt của chúng, mà tai lợn nái cũng khác. Nó có những ô màu đen và nâu đan xen chẳng khác gì mặt của chúng dính nhọ nồi. Có đôi lúc em thích, quen gọi nó là Nhọ Nồi, một cái tên mà không phải con lợn nào cũng được đặc ân gọi. Hai mắt của nó bé tí xíu mà lại có hình dẹt, mắt nó lúc nào cũng giống như đang buồn ngủ.
Chiếc mũi lớn hồng hào và ươn ướt, mỗi khi không có thứ gì ăn nó lại ủi những rơm rác có ở trong chuồng lên như tìm kiếm thứ gì đó. Miệng nó thì rộng với những chiếc răng sẵn sàng nhai ngấu nghiến bất kể thứ gì chú ta gặp. Thân hình của chú cũng không khác gì những chú gấu. Vì nó là lợn đẻ cho nên nó cứ ì à ì ạch, khịt khịt mũi mà mắt ánh lên vẻ háo ăn.
Không những thế, cứ lúc nào đói nó kêu ré lên như để đòi bà chủ hoặc ông chủ rằng tới giờ ăn của tôi rồi đấy. Còn bình thường nó kêu lên một âm thanh vô cùng đáng yêu: ụt ịt ụt ịt. Lông của chú óng mượt và khá thưa và đôi chỗ trên lưng thì cũng loang ra những màu y hệt như vậy, nhìn thật là ngộ. Chú luôn luôn trong trạng thái ì ạch nhưng cũng thấy thật đáng yêu.
Chú ăn tất cả những gì mà tôi cho, ăn rau lang ăn rau muống, có khi quẳng cả khoai lang sống nó cũng ăn một cách ngon lành. Chú lợn luôn tạo ra những thứ mà mỗi khi ngắm nhìn nó thì cũng có thể nằm cười lăn cả ngày. Nó quả thật là một con vật đáng yêu mà cũng thật hữu ích. Nó là lợn mẹ cho nên sẽ cho ra đời những chú lợn con mập mạp đáng yêu giống như nó.
Bài văn tả con lợn số 7Bài văn tả con lợn số 8
Hè nào, em cũng về quê thăm bà ngoại. Nhà bà có nuôi một con lợn rất dễ thương đã được 5 tháng.
Ngày mới bắt về, chú chỉ bằng trái bầu lớn, mà bây giờ chú đã bằng xô nước, nặng gần 50 ki-lô-gam. Nổi bật trên nước da hồng hồng là bộ lông trắng như tuyết. Đầu chú giống như trái dưa hấu hơi dẹp về phía trước. Hai tai chú giống như hai lá mít. Mỗi khi chú cử động vành tai lại rung rung. Đôi mắt màu đen nhỏ như hai hòn bi lúc nào cũng híp lại. Hai cái lỗ mũi nhỏ nằm giữa cái mõm dài và dày như nấp lon sữa bò.
Hai lỗ mũi chú lúc nào cũng động đậy, cái mũi chú ngửi thức ăn và đánh hơi rất giỏi. Mình chú tròn và dài khoảng một mét. Cái bụng cồng kềnh và xệ gần sát đất, mông căng tròn và nở nang. Bốn chân to như bắp chân người lớn, chắc khỏe để nâng đỡ thân hình mập ú của chú. Mỗi chân lại có bốn móng, ở phía dưới là lớp thịt đệm giúp chú đi lại dễ dàng hơn. Đuôi chú không dài lắm, chóp đuôi có chùm lông như cây chổi chà phe phẩy đuổi tất cả bọn ruồi quấy phá.
Mỗi lần nghe tiếng chân quen thuộc của bà em, lợn biết ngay có người mang thức ăn đến liền đi lại quanh chuồng như rất mừng rỡ. Chú hít mũi, đánh hơi khịt khịt, đôi mắt ti hí cứ nhìn chằm chằm vào máng thức ăn trông thật đáng yêu. Ngay sau đó chú sục ngay mõm vào máng và ăn một cách ngon lành. Sau khi ăn no, chú đi một cách nặng nề và nằm ịch ngay ở góc chuồng, thở phì phò, bụng phình to hạ xuống, mắt lim dim. Thỉnh thoảng chú lại hất đuôi lên xua ruồi muỗi.
Em rất yêu và thương chú lợn của ngoại nuôi vì chú thật đáng yêu và có những hành động thật ngộ nghĩnh. Em tự nhủ mỗi khi về quê ngoại chơi, được chăm sóc chú lợn thật tốt để chú ngày càng to béo, khỏe mạnh, đó cũng là niềm vui của mình.
Bài văn tả con lợn số 6Bài văn tả con lợn số 7
Cách đây hơn một năm, mẹ em có bắt về một chú lợn con về nhà để nuôi. Đó là một chú lợn con màu hồng trông rất dễ thương và em đặt tên của chú là “Ủn Ỉn” bởi vì suốt ngày chú chỉ kêu: “Ụt ịt, ụt ịt” nghe mới đáng yêu làm sao.
Ủn Ỉn khi mới được mẹ em mang về còn bé lắm, trông chú chỉ to hơn quả dưa hấu dài một chút. Lúc đó Ủn Ỉn mới chỉ được khoảng 5 cân, nên còn bé lắm. Trên người chú được khoác một chiếc áo màu hồng nhạt và điều đặc biệt ở chú lợn này là trên mông của chú còn có một chấm đen trông rất ngộ nghĩnh và đáng yêu. Đó cũng chính là đặc điểm để em phân biệt được Ủn Ỉn so với những chú lợn khác.
Trên thân hình tròn dài giống quả dưa ấy là một cái đầu nhỏ xinh, với đôi tai lúc nào cũng vểnh lên như đang muốn hóng chuyện gì đấy, còn đôi mắt thì lúc nào cũng đen láy và mở to tròn. Điều đặc biệt của chú lợn này là chú có một cái mõm rất dài. Cái mõm đó có một công dụng rất đặc biệt là có thể chũi thức ăn ra để ăn, trông rất tiện lợi.
Cùng trên thân hình đáng yêu ấy của Ủn Ỉn là một cái đuôi nhỏ xinh, lúc nào cũng xoắn lại như sợ ai tóm lấy. Bốn chiếc chân thì thon nhỏ và những bộ móng tù tù nhưng lại rất chắc chắn. Đến bây giờ, Ủn Ỉn đã được hơn 30 ki-lô-gam rồi, thân hình chú to và vạm vớ. Sức ăn của chú cũng tăng lên gấp nhiều lần so với những ngày lạ lẫm khi mới về nhà.
Bây giờ, Ủn Ỉn như là bá chủ trong chuồng, đến bữa cơm, Ủn Ỉn sẽ cùng cất tiếng kêu để gọi những chú lợn khác hãy tập trung ra ăn. Mỗi lần nhìn Ủn Ỉn ăn, trông thật là buồn cười bởi lúc nào chú cũng chúi cái mũi nhỏ xinh của mình vào chậu thức ăn như để ngửi ngửi và rồi sau đó thì lại đánh chén ngon lành.
Em rất thích chú lợn nhà em, chú không chỉ là một con vật nuôi trong gia đình, mà hơn thế nữa, chú còn là một con vật đã được chính mẹ và em chăm sóc cho từ khi còn bé đến lúc trở thành một chú lợn to lớn và trưởng thành nữa.
Bài văn tả con lợn số 6
Bài văn tả con lợn số 5Bài văn tả con lợn số 6
Bà nội em có nuôi một chú lợn. Ngày bà mới bắt về, lợn chỉ bằng cái bầu con, bé bé xinh xinh, vậy mà giờ to bằng xô nuớc cỡ vừa, mọi người trong xóm ai cũng bảo lợn bà em nuôi khéo, nhanh lớn quá.
Thân nó dài chừng nửa mét và to hơn gánh nước nhà bà. Đi theo cái thân là cái bụng cồng kềnh và lê lết gần sát đất, đôi mông tròn mẩy và nở nang. Đầu nó to, nhìn giống quả bưởi da xanh nằm ngang, mặt ngắn ngắn, cái mõm dài, đầu mõm luôn ướt. Mắt lúc nào cũng ti hí mở he hé, chẳng xứng gì với đôi tai to nghểnh kia.
Khi cử động vành tai lại rung rung. Hai cái lỗ mũi nhỏ giữa cái mõm dài như nắp sữa bò. Hai lỗ mũi chú lúc nào cũng chun chun, cái mũi ngửi thức ăn và đánh hơi rất giỏi. Mỗi đợt cám vào chỉ vài phút húp sụt sụt là chú đã làm hết bay cả máng. Chân to như bắp chân người lớn, chắc khỏe nâng đỡ lấy thân hình béo ú của chú. Đuôi không dài, thon thon như đôi đũa ăn, chóp đuôi có chùm lông phe phẩy đuổi tất cả mấy con ruồi nhặng phá quấy.
Em rất thích chú lợn của nội nuôi vì chú rất đáng yêu và thật ngộ nghĩnh. Mỗi khi về nội chơi, em chăm sóc chú lợn thật tốt để chú ngày càng to béo, khỏe mạnh.
Bài văn tả con lợn số 4Bài văn tả con lợn số 5
Những con vật gắn với nhà nông thì có rất nhiều con vật. Mỗi con có một lợi ích riêng một đối với người dân. Nhưng trong số đó, con vật mà tôi yêu thích nhất có lẽ đó chính là con lợn.
Tuần trước bố tôi có mua một con lợn làm giống về. Con lợn nhìn rất đẹp. Chú có một bộ lông trắng như cước lại được lớp da trắng mịn của giống nòi truyền lại làm nền, trông chú vốn đã trắng lại càng trắng hơn. Nhìn từ xa, chú giống như con bạch mã non vài tháng tuổi. Mỗi lần sục vào máng cám ăn y như một ống hút khổng lồ làm sôi lên những bọt nước như bong bóng của những cơn mưa mùa hạ.
Mỗi khi nó ăn nó uống cạn phần nước rồi mới ăn phần cái. Khi ăn chiếc đuôi của nó cứ ve vẩy, bố nói nó làm như thế để đuổi ruồi muỗi. Bốn chân lợn chắc khỏe và cao nần nẫn từng tầng thịt một. Mỗi khi được tắm chú thích lắm mặt cứ hướng về chiếc vòi mồm thì mở ra để được uống nước nữa. Lúc đó nhìn chú thật là thích.
Để cho lợn mau lớn nhà tôi còn cho nó ăn trộn cám với rau chuối và cả bèo tây nữa. Khi nó ăn, chỉ một thoáng, máng cám đã nhẵn thín như ai chùi. Cái bụng của chú mới bệ vệ, nặng nề làm sao! Từ máng cám đến góc chuồng chỉ độ ba sải tay của em mà chú phải ì à ì ạch một lúc sau mới lết tới được, rồi ngã bịch xuống nền chuồng, mũi miệng thi nhau thở. Những lúc như thế, nhìn đôi mắt của nó toàn lòng trắng cứ đờ đẫn ra y như chú đang ở trạng thái của người say rượu thật buồn cười.
Còn hai cái tai thì như hai cái lá mít phất qua phất lại như cám ơn người đã cho chú chén những bữa no say mãn nguyện như thế. Cái lỗ mũi dài, ươn ướt như người bị cảm cúm. Mõm lợn không ngớt cử động, lúc thì ủi phá, lúc thì kêu eng éc… Thân chú to và rất dài. Vì được chăm sóc cẩn thận nên cái bụng chú lúc nào cũng căng tròn, đầy những thịt. Nước da màu hồng nhạt, đẹp như màu hoa đào những ngày xuân.
Cái bộ chú ăn mới thô tục làm sao! Nếu đã quá bữa mà chưa cho chú ăn thì chú sẽ kêu thật ầm ĩ cho đến khi nào có người cho ăn mới thôi. Mỗi lần ăn thì chú ăn lia lịa, cám, cháo, lá môn… dính trên mõm không biết bao nhiêu mà kể. Tôi rất yêu chú lợn này, mỗi khi rảnh rỗi tôi thường giúp bố băm bèo cho lợn mau lớn, mỗi khi nhìn chú lợn tôi cảm thấy như được vui hơn rất nhiều.
Bài văn tả con lợn số 4
Bài văn tả con lợn số 3Bài văn tả con lợn số 4
Nhà em có nuôi nhiều con vật như gà, chó, mèo, trâu, lợn, vịt, ngan,… Mỗi con đều có một đặc điểm riêng biệt dễ nhận ra. Tuy nhiên em vẫn thích được ngắm nhìn những chú lợn ăn no nằm mát ở trong chuồng, chẳng được đi đâu hết.
Nhà em làm nhiều chuồng để nuôi lợn: lợn đẻ, lợn lấy thịt. Riêng có một chuồng lợn lấy thịt thì chỉ có một con. Suốt ngày chú ta chỉ có ăn và ngủ, rồi lại thong dong đi dạo ở trong chuồng. Chú lớn này là con của chú lợn đẻ ở chuồng khác. Chú ta đã được 5 tháng tuổi nên khá chững chạc. Chú lợn màu trắng, có bộ lông nhạt cũng màu trắng, khi chú được tắm thì chẳng mấy chốc mà người chú khô rất nhanh.
Da của chú hồng hào, vì đang ở giai đoạn trưởng thành và phát triển. Đôi mắt của chú to và tròn, có màu xanh xanh, mỗi khi chú đói, đôi mắt lim dim và cứ nhìn ra bên ngoài. Những lúc chú ăn no thì đôi mắt híp lại dường như là buồn ngủ. Cái đuôi của chú ngắn tũn, chỉ bằng một gang tay của em. Tuy nhiên cái đuôi này lại giúp ích cho chú rất lớn trong việc xua đuổi ruồi muỗi hằng ngày.
Bốn cái chân của chú khá to và chắc chắn, chú bước đi rất nhanh ở trong chuồng. Chú lợn này nặng tầm 25 ki-lô-gam, và mẹ bảo là chú đang trong giai đoạn lớn rất nhanh. Chú ăn cũng rất nhiều, mỗi lần mẹ phải cho chú ăn một nồi cám rất to mới no. Nếu không no thì chưa đến giờ ăn chú đã kêu lên ầm ĩ cả chuồng rồi. Chú ăn rất nhanh, cứ chìa cái mõm vào nồi và ăn, chẳng ngẩng đầu lên. Mỗi khi ăn xong, cái bụng chú lại căng tròn và chú nằm duỗi cẳng ra. Rồi cứ thế chú lại chìm vào giấc ngủ.
Cứ ngày lại qua ngày, chú lớn nhanh như thổi. Và đến một thời gian nào đó chú lại được xuất chuồng, làm tăng thu nhập cho gia đình em. Em rất thích ngắm nhìn chú mỗi khi đi học về, thật an nhàn và ngộ nghĩnh.
Bài văn tả con lợn số 2Bài văn tả con lợn số 3
Con lợn giống nhà em nuôi nay đã được ba tháng rưỡi. Mới ngày nào đó, mẹ đưa từ trại chăn nuôi thị xã về, nó chỉ bằng quả dưa hấu lớn. Vậy mà nay đã xấp xỉ một tạ. Ai cũng khen con lợn sao mà chóng lớn thế!
Chú có một bộ lông trắng như cước lại được lớp da trắng mịn của giống nòi truyền lại làm nền, trông chú vốn đã trắng lại càng trắng hơn. Nhìn từ xa, chú giống như con bạch mã non vài tháng tuổi. Mỗi lần sục vào máng cám ăn y như một ống hút khổng lồ làm sôi lên những bọt nước như bong bóng của những cơn mưa mùa hạ, Chỉ một thoáng, máng cám đã nhẵn thín như ai chùi.
Cái bụng của chú mới bệ vệ, nặng nề làm sao! Từ máng cám đến góc chuồng chỉ độ ba sải tay của em mà chú phải ì à ì ạch một lúc sau mới lết tới được, rồi ngã bịch xuống nền chuồng, mũi miệng thi nhau thở. Những lúc như thế, nhìn đôi mắt của nó toàn lòng trắng cứ đờ đẫn ra y như chú đang ở trạng thái phê phê, thật buồn cười. Còn hai cái tai thì như hai cái lá mít phất qua phất lại như cám ơn mọi người cho chú chén những bữa no say mãn nguyện như thế.
Mỗi lần đi học về, em không quen ra vườn cắt rau đem vào cho chú một ôm to tướng. Chú vừa nhai rào rào vừa ve vẩy cái đuôi bông lau có vẻ thích thú lắm. Chỉ còn một tháng nữa là xuất chuồng, mẹ bảo: “Con ráng phụ chăn lợn cho chóng lớn, mẹ sẽ mua cho con đôi bông tai đeo cùng chúng bạn vào dịp sinh nhật tới”. Nói vậy thôi, chứ em sẽ cố gắng phụ mẹ để mẹ đỡ vất vả.
Em rất yêu quý chú lợn nhà em, em mong chú lớn thật nhanh và khỏe mạnh để đến ngày làm tăng thu nhập kinh tế cho gia đình em.
Bài văn tả con lợn số 1Bài văn tả con lợn số 2
Nhà bác em có nuôi một con lợn. Mỗi lần về quê em thường theo bác ra xem cho lợn ăn. Chú lợn rất ngộ nghĩnh và đáng yêu.
Bác có ý định nuôi lâu dài nên chọn giống lợn sề. Chú lợn tính đến nay đã được 6 tháng tuổi. Ngày mới bắt về chú chỉ nhỏ xíu nhưng giờ đã nặng tới 60 ki-lô-gam. Bác em thường xuyên cân chú để biết tình hình rồi chăm sóc cho tốt hơn. Chú lợn có màu khoang đen trắng, nổi bật trên đó là những hàng lông ngắn và cưng cứng, vuốt cảm giác hơi tê tê tay. Đầu chú nhìn như quả dưa hấu nhỏ, suốt ngày ngúc ngắc rất đáng yêu.
Tai chú như 2 chiếc lá mít, mỗi khi cử động lại rung rung. Em để ý hai cái tai chú còn còn thể phe phẩy một cách rất ngộ nghĩnh. Đôi mắt chú nhỏ dài, màu đen nhánh như 2 hòn bi. Hai lỗ mũi nhỏ hồng hồng suốt ngày khụt khịt, thỉnh thoảng lại hắt xì rất buồn cười. Chiếc mõm chú dài với hàm răng nhọn hoắt. Lúc mới mua về bác em còn phải nhổ răng nanh cho chú lợn khiến chú kêu ầm ĩ hết cả nhà.
Thân hình chú tròn trịa, cái bụng căng tròn chùng xuống sát mặt đất. Mông chú đầy đặn, nở nang. Bốn chân chắc khỏe, vững chãi với bộ móng dày và cứng. Đuôi chú không dài lắm, suốt ngày ve vẩy đuổi ruồi, cuối đuôi có một chùm lông ngắn màu đen.Chú lợn rất ham ăn. Bác em rất mừng vì điều này, nói ham ăn thì chóng lớn. Mỗi khi nghe thấy có tiếng bước chân người đến gần là chú lại vùng dậy, nghển cổ kêu ụt ịt, cọ mõm vào thanh xà ở cửa chuồng lợn ra vẻ đòi ăn.
Khi thức ăn đổ đầy vào máng ăn, chú vục mõm vào ăn ngon lành, vừa ăn vừa kêu ụt ịt ra chiều thích thú lắm. Bình thường chú chỉ ăn 2 bữa một ngày, sáng và chiều, thỉnh thoảng bác em cho chú ăn thêm rau muống. Chú rất thích ăn rau muống. Mỗi lần về quê em thường đi hái rau muống rồi vứt cho chú ăn.
Chú ăn rau ráu một cách ngon lành làm em cũng thấy rất vui. Ăn xong chú lại lặc lè quay vào trong một góc rồi nằm xuống lim dim. Thỉnh thoảng có con ruồi hay muỗi nào bén mảng đến chú lại lấy đuôi phe phẩy đuổi đi. Buồn quá thì chú dụi đầu vào góc tường ủi ủi.
Ngắm nhìn chú lợn đáng yêu trong chuồng là một sự thích thú của em. Em rất yêu quý chú lợn vì những hành động ngộ nghĩnh của chú. Mỗi lần về quê em đều ra ngắm nhìn chú. Nhìn chú lớn lên mỗi lần là em lại cảm thấy rất vui. Một ngày nào đó chú lợn sẽ giúp cho kinh tế gia đình bác em khá lên. Điều đó khiến em càng thêm yêu quý chú hơn.
Đăng bởi: Nguyễn Duyên
Từ khoá: 10 bài văn tả con lợn mà em biết hay nhất
Cập nhật thông tin chi tiết về 10 Bài Văn Chứng Minh Rằng Cần Phải Chọn Sách Mà Đọc (Lớp 7) Hay Nhất trên website Hgpc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!